Đây là nguyên văn trong kinh.
PHÁP BẢO ÐÀN KINH
Lục Tổ Huệ Năng
Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Dịch và Lược Giải
--- o0o ---
Lời Dịch Giả
PHÁP BẢO ÐÀN KINH
Lục Tổ Huệ Năng
Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Dịch và Lược Giải
--- o0o ---
Lời Dịch Giả
Pháp Bảo Ðàn Kinh là một quyển Kinh chuyên hoằng Pháp Ðốn Giáo của Thiền Tông, do Lục Tổ Huệ Năng giảng và Ngài Pháp Hải ghi lại, nay đã dịch sang nhiều thứ tiếng và đã phổ biến trên thế giới.
Lục Tổ là người không biết chữ nhưng nói ra lời nào cũng đúng ý Phật. 1) Tổ nói: Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng với văn tự. Như vậy người đọc nên được ý quên lời, chớ nên chấp lời nghịch ý. 2) Như Lục Tổ nói: Nay ta gượng nói ra, khiến ông bỏ tà kiến, chớ hiểu theo lời nói, mới cho biết ít phần.
3) Chớ hiểu theo lời nói là chớ chấp lời mà nghịch ý; mới cho biết ít phần là được ý mà quên lời, nói được ý là phải đốn ngộ ý của Tổ, cũng là ý của Phật vậy. 4) Phật nói: Sự suy lường phân biệt chẳng thể hiểu được pháp này. Hễ nói đã chứng thì chẳng thể tỏ rõ cho người biết, nếu nói chẳng chứng thì thuyết lý chẳng thể liễu triệt, nên pháp đốn giáo này chẳng phải muốn người hiểu theo lời, cần phải tự tin, tự tu, tự chứng, tự ngộ mới được. Nếu chỉ dùng miệng luận bàn, dùng tâm suy lường là trái với ý Tổ. Phật có nói: Như Lai dùng tất cả thí dụ để diễn đạt mọi việc thì được; nhưng chẳng thí dụ nào có thể diễn đạt pháp này. Tại sao vậy? Vì tự tánh bất khả tư nghì, tâm trí chẳng đến được. Vậy phải tin rằng: miệng luận bàn, tâm suy lường là việc chướng đạo vậy.
Ðối với pháp thế gian thì dùng miệng luận bàn, dùng tâm suy lường có thể thấu hiểu được; với pháp xuất thế gian dùng miệng luận bàn, dùng tâm suy lường lại càng xa với Ðạo. Cổ Ðức nói: Ðối với việc này, có tâm chẳng thể cầu, vô tâm chẳng thể đắc, ngôn ngữ chẳng thể thông đạt, im lặng chẳng thể thấu suốt. Quyển Kinh này, mỗi phẩm đều có tỏ bày ý chỉ như thế, xin độc giả tự xét kỹ xem! Nói tóm lại, PHÁP ÐỐN GIÁO này là khai thị cho người học Ðạo để y theo CHÁNH PHÁP tu hành cho đến đốn ngộ mà thôi.
Thích Duy Lực.
đây là kiến giãi riêng của Cường.
Thưa quý vị, 1) Tổ nói: Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng với văn tự. Như vậy người đọc nên được ý quên lời, chớ nên chấp lời nghịch ý.
Tại sao vậy. vì cái pháp của Phật là do con người mà kiến lập, vì Phật cũng là từ con người mà thành Phật, đã là con người thì có cái trí bát nhã, sễ sanh ra diệu pháp như Đức Phật vậy. vì diệu pháp của Phật không thể dùng pháp thế gian mà suy lường được, nếu càng suy lường thì càng xa với đạo, vì cái tướng văn tự không thể diển đạt hết trong vi diệu của ý Phật, cho nên muống hiểu được ý Phật cần phải tự tham ngộ mới được.
Ví dụ. tôi viết chữ (o) nếu nhình vào chữ Việt đây là chữ o, nhưng nếu nhình vào toán học thì lại là số không, nhưng nếu nhình vào hình tướng lại là vòng chòn,nếu chấp vào tướng lại thấy nó không được chòn, nếu chấp vào không lại có hiện hửu của chữ không=(o), vì có chữ viết in trên giấy là do có người viết lên trang giấy ấy là có khởi đầu cùa chữ o,nhưng nhình vào chữ o thì không thấy điểm khởi đầu, nếu không có thì làm sao lại có chữ o trên giấy chắc hẳng là có người khởi đầu viết lên, ấy là nghĩa sanh diệt, thì nó cũng đồng như các con cầm thú từ đâu mà đến, vậy có nghĩa là mội vật đều có sự khỡi đầu mà ra, cho nên con người muống phá cái sự chấp trước thì phải hiểu cái đại ý từ nguồn gốc, xin đừng chấp vào một chữ văn từ mà diễn ra.
Vì vậy người học kinh sách phải đọc hết toàn câu chuyện để hiểu được đại ý và phải hiểu được sự hư cấu của câu chuyến có tác ý nói lên việc gì, xin đừng chấp vào văn tự mà hiểu lầm ý kinh.
2) Như Lục Tổ nói: Nay ta gượng nói ra, khiến ông bỏ tà kiến, chớ hiểu theo lời nói, mới cho biết ít phần. ấy là mình đọc một câu kinh đã hiểu được những chữ nghĩa trên văn tự xin đừng kết luận sốm ý nghĩa trong câu này, phải nên đọc hết cả đoạn kinh có liên cang đến câu này, hoặc có lúc nếu cần thiết, phải đọc hết cả quyển kinh mới tìm ra được ý nghĩa trong câu. Vì diệu lý của kinh Phật không như đọc chuyện tiểu thuyết như phàm phu. cũng như quyển Pháp Bảo Đàn kinh vậy, nếu tôi chỉ đọc hết một phẫm trong quyển này, thì tôi sẽ chác hẵng chính tôi cũng hiểu lầm ý kinh qua những căn cứ theo văn tự. vậy nếu tôi tự mê mụi thì còn nỡ, lại dạy bảo sai cho người khác, thì chính tôi là một kể phĩ bán kinh Phật làm đoạn dứt Phật chủng cho lời sau. thì tội chướng của tôi không thể đo lường.
Cũng như tôi thấy có một người giảng kinh trên Youtube Ông ấy giảng đến một câu chuyện trong kinh nói về con Két=Vẹt đọc nam mô a di đà phật. ông nói là khi xưa vì có một chủ nhân thường dạy con vẹt đọc câu nam mô a di đà phật, sau khi con vẹt chết rồi ỡ tại miệng con vẹt nỡ ra đóa hoa, (bong hoa). nhưng sau đó thì cũng không thấy ông ấy có lời nào bổ sung thêm, rồi là câu chuyện kết thúc. nếu thuyết pháp như vậy thì sẽ khiến cho học giã hiểu lầm tưởng là chỉ đọc nam mô A Di Đà Phật, khi diên tịch thì trong miệng sễ mọc lên đóa hoa, ý là được chứng hoặc v v v.
Thay vì ông ấy phải nói ra sự hư cấu của câu chuyện, trọng điệm của nó là sự tiềm thức của động vật, rồi còn phải cho các học giã hiểu tại sao lại có đóa hoa trong miệng, có đóa hoa ấy ý là tâm thức của con vẹt thọ được pháp Phật sau khi sám hối ỡ tự tâm, và một lòng thành, khiến cho được Phật chứng. Nhưng trọng điểm của Phật chứng cho nó là ỡ đâu? là ỡ chổ lòng thành quyết tâm luyện Phật. nhưng chứng là chứng cái gì? chứng cho kiến tánh thành Phật, hây là chứng cho sự sám hối? nhưng đến đây quý đọc giã tự lảnh hồi.
Thưa quý vị ỡ đây tôi không nói là ông ấy không biết, mà chỉ tiếc thay thuyết pháp không triệt rẽ tận gốc, thì sẽ khiến cho muông ngàn kiếp sau sẽ có thể đoạn dứt Phật chủng, vì việc này còn tuy thuộc có bảo nhiêu tướng thuyết Chương Ngã ỡ trên thế giới này, rồi còn tùy thuộc đã có bảo nhiêu học giã do sự thuyết này khiến chúng sinh lầm mê Phật tánh. rồi tướng thuyết từ đó mà tiếp tục ra đời.
Cho nên Phật nói, thuyết pháp cần phải có sự tâm thông, ấy là phương tiện của nhà Phật. Thuyết thông chưa chắc là tâm thông, tâm thông tự nhiên thuyết cũng thông. Vậy thế nào là tâm thông? Trên phù hợp ý Phật, dưới khế hợp đương cơ mới được gọi là tâm thông. Muốn hoá độ chúng sanh, Tự phải có phương tiện, Khiến họ hết nghi ngờ, Tức là tự tánh hiện. Hai chữ phương tiện này chẳng phải giống như những người lạm dụng để cầu thêm danh lợi, hoặc che giấu tội lỗi; cũng chẳng phải dùng để độ người sơ cơ. Phương tiện ở đây là xuất phát từ Bát Nhã, phải người kiến tánh mới có Phương tiện này, mà dùng để khiến cho đương cơ từ NGHI đến NGỘ.
3)Chớ hiểu theo lời nói là chớ chấp lời mà nghịch ý Đây là ví dụ để phá chấp hiểu theo lời nói không có thật. khi xưa cha mệ dạy mình khi còn bé thơ bảo là khi ăn cơm đừng để cơm rớt suốn bàn, nếu đã rớt suốn rồi thì phải lụm lên ăn, vì ăn không tữ tế sẽ làm tốn kếm gạo, vì người chòng ngũ thóc rất cực khổ nên mình mới có cơm ăn, cho nên không nên ăn uống kiểu thất đức. vị nếu người ta hiểu theo lời nói thì khi cơm đã rớt suốn bải phân trâu, thì làm sao mà bảo ăn được. nếu nứa bé hiểu theo lời mà lụm cơm lên ăn trong bải phân trâu, ấy thì quả là chấp lời mà nghịch ý. cho nên Lục Tổ nói. nói được ý là phải đốn ngộ ý của Tổ, cũng là ý của Phật vậy.
4) Phật nói: Sự suy lường phân biệt chẳng thể hiểu được pháp này đúng vậy, vì nếu tôi suy lường của lời mệ dạy thì tôi phải ăn cơm với phân trâu, ấy cũng là do cái lổi tại suy lường vậy. vâng nếu tôi tham ngộ được đại ý của mệ dạy, thì tôi sẽ không ăn cơm với phân trâu.
Cho nên pháp cần phải linh động, tức là mình truyển kinh, pháp nếu trụ, tức là bị kinh truyển= chói buộc, cho nên Phật nói hành nơi pháp khí chẳng trụ nơi pháp tướng là vậy.