258. TÍCH CHUYỆN MẸ CỦA TRƯỞNG LÃO SƠN NA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong kỳ giảng pháp, có đề cập đến người mẹ của Trưởng lão Sơn Na.
Thuở ấy, ở thành Cưu Ra Ga, có một vị phu nhơn rất giàu sang sanh được một người con trai, tên là Sơn Na, đi tu từ lúc còn nhỏ. Một hôm, tỳ kheo Sơn Na đi ngang qua làng cũ. Bà mẹ hay tin, mướn người dựng một đài cao và rộng, tổ chức một buổi lễ bố thí thật lớn để mừng con và mời dân chúng tối đến để nghe Trưởng lão Sơn Na giảng pháp. Tối hôm ấy, vị phu nhơn cùng với tất cả thân nhơn trong nhà đến dự, chỉ lưu lại một đứa tớ gái nhỏ trông nom cửa nhà.
Bấy giờ, có một bọn cướp đông người gần trăm tên, thừa cơ nhà vắng, mới đến cướp bóc. Tên đầu đảng lại đến đài giảng pháp, ngồi gần vị phu nhơn để canh chừng, với ý định gây cản trở, nếu phu nhơn bất thần trở về. Đến nửa đêm, đứa tớ gái chạy đến đài, thưa với phu nhơn, rằng nhà bị trộm cướp vào. Phu-nhơn đang chăm chú nghe pháp, quay lại bảo nó: "Cứ mặc kệ chúng, con trở về đi, đừng làm rộn, để bà nghe pháp". Con bé vâng lời ra về; lát sau, nó trở lại thưa: "Bà ơi, bọn trộm đang lấy hết các choé bạc ở nhà ngang rồi!" Vị phu nhơn quở nó: "Sao con cứ làm rộn bà, ai muốn lấy gì cứ lấy, con để yên cho bà nghe pháp, về đi". Đứa tớ chẳng dám cãi lời, bước đi; độ nửa giờ sau, nó hộc tốc chạy trở lại: "Bà ơi, bọn cướp phá cửa phòng riêng của bà, khuân hết vòng vàng, ngọc ngà, châu báu rồi!" Vị phu nhơn quắc mắt bảo nó: "Mầy thật chẳng biết nghe lời bà, cứ theo làm bà chẳng chú ý đến hết bài pháp. Về ngay đi, còn mất gì bà cũng chẳng cần!" Tự đầu hôm, tên chúa đảng đã nghe rõ từng lời của vị phu nhơn, anh ta rất ngạc nhiên, bỗng tỉnh ngộ, ta cướp giựt bất lương như thế, rồi sẽ bị quả báo không sai. Biết đâu lại bị sét đánh bể đầu, hay bị đất nứt sa vào địa ngục. Anh ta liền chạy đi, hét đồng bọn đem trả lại hết tài vật, rồi cả lũ đến đài giảng pháp, quì xuống lạy xin lỗi vị phu nhơn. Bài pháp vừa dứt, Trưởng lão Sơn Na vừa bước xuống đài, cả bọn cướp đến xin cải tà qui chánh.
Hôm sau, Trưởng lão dẫn cả trăm tên đầu trộm đuôi cướp đang ăn năn bước theo sau, đến chùa Kỳ Viên, xin xuất gia tu hành. Đức Phật tùy căn cơ mỗi người mà nói lên chín bài Kệ sau đây:
- Tỳ kheo, tâm từ bi an trú,
Tín thành hành giáo pháp Phật đà;
Cảnh tịch tĩnh Niết bàn thành tựu,
Các hành hữu lậu được an hoà.
(Kệ số 368)
Thuyền rỗng không nầy ví tấm thân,
Tỳ kheo mau tát cho khô nước,
Hãy dập tắt ngay lửa tham sân,
Thuyền nhẹ đi nhanh đến Niết bàn.
(Kệ số 369)
Cắt đứt NĂM là ngũ độn sử,
Dứt bỏ NĂM là ngũ lợi sử,
Trau dồi NĂM là ngũ lực,
Vượt khỏi NĂM là ngũ phược,
Đó gọi là bực "Vượt Bộc lưu".
(Kệ số 370)
Tỳ-kheo, hãy hành thiền tinh tấn,
Chớ thả tâm quanh quẩn thú vui.
Phóng dật, nuốt hòn sắt nóng đỏ,
Lửa điạ ngục thiêu, chớ than khổ!
(Kệ số 371)
Chẳng có định tâm nơi người thiếu trí,
Chẳng có trí nơi kẻ thiếu định tâm.
Vị nào được cả hai: định, huệ,
Vị ấy kề bên bệ Niết bàn.
(Kệ số 372)
Tỳ kheo đến ẩn nơi vắng vẻ,
Tâm tư thường lặng lẽ an nhiên.
Chứng thông Giáo pháp hành thiền,
Hưởng nguồn phỉ lạc siêu nhiên thoát trần.
(Kệ số 373)
Mỗi khi quán tưởng và thấu rõ
Các uẩn khởi sanh rồi hoại diệt,
Phỉ và lạc, tỳ kheo hưởng thọ,
Chỉ bực Bất tử mới được biết.
(Kệ số 374)
Đây là chỗ bắt đầu nỗ lực,
Tỳ kheo có trí, biết tri túc,
Các giác quan đều được thu thúc,
Giới luật căn bản luôn nghiêm trì.
(Kệ số 375)
Bạn hiền gần gũi khéo kết thân,
Đúng chánh mạng, cử chỉ đoan trang,
Do đó, thấm nhuần trong phỉ lạc,
Phiền não sớm dứt, hướng Niết bàn.
(Kệ số 376)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
-
Sơn Na: Tên vị Trưởng lão nầy, tiếng Pali là Sona.
-
Cưu Ra Ga: Tên thành nầy, tiếng Pali là Kuraraghara.
-
Tỉnh ngộ: Nhờ suy nghĩ biết trước mình đã lầm, nay sửa lại.
-
Bất lương: Bất = chẳng; Lương = tốt. Bất lương là chẳng ngay.
-
Quả báo: Quả = kết quả, hậu quả; Báo = báo ứng. Hễ làm điều lành, hưởng được lành, gọi là được quả báo tốt. Ác báo thì ngược lại.
-
Cải tà qui chánh: Cải = sửa lại; Tà = quấy; Qui = theo về; Chánh = đúng, phải. Cải tà qui chánh là bỏ điều quấy để theo điều lành.
-
Xuất gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Xuất gia là bỏ đời sống có gia đình trong xã hội, vào chùa đi tu.
-
Căn cơ: Tâm tánh hay trí huệ riêng-biệt của mỗi người.
-
Từ bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ. Tâm từ bi rộng thương mọi loài
-
Tín thành: Tín = tin tưởng; Thành = thật tình. Tín thành là lòng tin
-
Tịch tĩnh: Tịch = vắng; Tĩnh = yên lặng.
-
Các hành hữu lậu: Chữ Hành dịch nghĩa chữ Pali sankhāra, nghĩa rất rộng, ở đây, chỉ xin lấy một nghĩa hẹp là các hiện tượng tâm linh bên trong tâm; chữ hữu lậu, hữu là có; lậu là (chất dơ) rỉ chảy ra. Các hành hữu lậu nếu được hiểu gọn là phần tâm linh bên trong bị nhiễm ô thành các phiền não như tham sân, si, v.v... bộc lộ ra bằng các hành động, lời nói, hay ý tưởng chẳng lành. "Các hành hữu lậu được an hoà", là giữ cho thân tâm được quân bình, tĩnh lặng.
-
Ngũ độn sử: Năm món kết sử thấp (kết = buộc; sử = sai khiến):
-
Ngũ lực: Năm sức mạnh tinh thần:
- (1) Tín lực, niềm tin vững;
(2) Tinh tấn lực, nỗ lực, cố gắng;
(3) Niệm lực, suy nghĩ để phá các ác kiến;
(4) Định lực, tâm an định phá các vọng tưởng;
(5) Huệ lực, trí sáng phá sự ngu tối.
-
Ngũ phược: (Phược = lấy dây mà trói buộc) = năm sự trói buộc; đó là: tham, sân, si, mạn và tà kiến.
-
Vượt Bộc lưu: Bộc lưu là thác nước, từ trên cao cứ đổ xuống mãi. Bực Vượt Bộc lưu là hàng Thánh đã phá mười kết sử, dẹp năm sự trói buộc, được năm sức mạnh, tóm lại, đã giác ngộ và giải thoát.
-
Phóng dật: Lười biếng, buông lung, chẳng cố gắng.
-
Kề bên bệ Niết bàn: Đến nơi ngưỡng cửa (= bệ) của Niết bàn.
-
Phỉ Lạc: Niềm vui sướng. Phỉ, dịch chữ Pali Piti, niềm vui khi ngồi thiền đắc định. Lạc là các thú vui, ở đây, chỉ thú vui tinh thần.
-
Siêu nhiên: Siêu = vượt lên trên; Nhiên = tự nhiên; Siêu nhiên là khác với thế tục, trần thế; Thoát trần là vượt cảnh thường tình.
-
Uẩn: Còn gọi là ấm, nghĩa là tập hợp chung lại và che mờ. Thân tâm con người có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
-
Bất tử: Bất = chẳng; Tử = chết. Bực Bất tử là bực đã chứng được vô sanh, chẳng còn sanh lại nữa nên chẳng hề chết đi.( Bực A la hán).
-
Tri túc: Tri = biết; Túc = đủ. Tri túc là biết vừa đủ, chẳng đòi thêm.
-
Thu thúc: Kềm giữ, nhiếp phục, điều phục.
-
Nghiêm trì: Trì = giữ gìn; Nghiêm trì là tuân theo cẩn thận.
-
Chánh mạng: Chánh = chơn chánh; đứng đắn; Mạng = mạng sống. Chánh mạng là cách mưu sanh đứng đắn bằng nghề chơn chánh.
-
Đoan trang: Nghiêm trang và đứng đắn.
-
Niết Bàn: tiếng Phạn Nirvana; Pali Nibbāna, tâm trạng người dứt phiền não, lìa mọi ham muốn, chứng được vô sanh, sống tự tại.
B. NGHĨA Ý:
(1)
Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại một vị phu nhơn chăm chú nghe Pháp, chẳng thèm lưu tâm đến việc nhà đang bị trộm cướp.Ý nghĩa rất hứng thú của Tích chuyện là thái độ của vị phu nhơn chẳng màng việc mất cả tài sản, chỉ lo theo dõi bài giảng pháp, đã làm thức tỉnh được tên chúa đảng khiến y và đồng bọn biết cải tà qui chánh.
(2)
Ý nghĩa các bài Kệ từ số 368 đến số 376:
Mặc dầu các bài Kệ được đức Phật đọc để dạy các tỳ kheo, nhưng người tu tại gia cũng có thể học tập theo. Để tiện phân tách chín bài Kệ, xin sắp xếp lại thành ra ba nhóm:
- Nhóm một: Bốn bài dành cho người mới bắt đầu tu: số 375, 376, 368 và 369;
- Nhóm hai: Bốn bài khuyên tu Thiền: số 371, 372, 373 và 374.
- Nhóm ba: Một bài dành cho bực thượng căn: số 370.
Nhóm một:
Bài Kệ số 375: đây là bài Kệ quan trọng, chỉ rõ khi mới vào tu phải làm những gì trước:
- a. Có trí, tức là phải siêng năng học hỏi giáo ý;
b. Biết tri túc, tức là dẹp bỏ mọi đòi hỏi, biết vừa đủ;
c. Các giác quan đều được thu thúc, tức là kềm giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, chẳng đua đòi chạy theo cảnh vật bên ngoài;
d. Giới luật căn bản luôn nghiêm trì, tức là theo đúng thật kỹ lưỡng mọi điều ngăn cấm, tự đặt mình trong vòng kỷ luật khắt khe, để buộc thân tâm vững tiến trên đường tu tập.
Bài Kệ số 376: dạy phải noi gương theo những gì để tu tập:
- a. Gần gũi, kết thân với bạn hiền: được khuyên nhũ làm điều lành, được an ủi khi lo lắng, được vui khi cùng tu với nhau;
b. Đúng Chánh mạng: nếu xuất gia, theo đúng hạnh khất sĩ, dẹp được lòng tự ái, ngã mạn khi đi xin; nếu tại gia, làm tròn nhiệm vụ trong khi hành nghề chơn chánh;
c. Cử chỉ đoan trang: trong các oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, nói và nín, đều nghiêm trang, tập theo cách của người bạn hiền đi trước;
d. Phiền não dứt, được phỉ lạc, hướng đến Niết bàn: nhờ có bạn hiền cùng tu, nên phiền não sớm dứt, được niềm vui thanh cao, hướng đến sự giác ngộ và giải thoát của Niết Bàn.
Bài Kệ số 368: dạy hai đức tánh căn bản của người tu-hành: tâm Từ Bi và niềm tin vững chắc:
- a. Tâm an trú trong Từ Bi: luôn luôn đem nguồn vui đến cho mọi người, cứu khổ cho mọi loài;
b. Tín thành theo giáo pháp Phật đà: Tâm Bồ đề thật kiên cố, dẹp mọi nghi ngờ, tránh được sự thối chí;
c. Sớm chứng được cảnh tịch tĩnh Niết Bàn, nhờ các hành hữu lậu (= các phiền não nơi thân tâm) trở nên an hòa; đây là kết quả từ từ trên bước đường tu tập, vui mà nhận thấy mình có tiến bộ.
Bài Kệ số 369: đây là bài Kệ nên học thuộc lòng, vì hình ảnh "chiếc thuyền rỗng không" đáng ghi nhớ mãi trong tâm khảm:
- a. Thuyền rỗng không nầy ví tấm thân: thân tâm nầy do năm uẩn tạm hợp, sẽ tan rả, nên xét kỹ mà thấy nó thật là rỗng không;
b. Tát cho khô nước tức là dập tắt ngay lửa tham, sân: thuyền khô nước trở nên nhẹ nhàng, thân tâm dẹp sạch tham sân trở nên thanh tịnh, đó là điều kiện tốt để sớm chứng được cảnh Niết bàn;
c. Thuyền nhẹ đi nhanh đến Niết bàn: hình ảnh ngồi thuyền đi nhanh đến Niết bàn rất ư là ... thơ mộng.
Tóm lại, các bài Kệ thuộc Nhóm một đặt căn bản cho việc bắt đầu tu tập: niềm tin vững chắc, giới luật nghiêm trì, kết thân bạn hiền, phát tâm Từ Bi, dẹp lòng tham sân.
Nhóm hai: ghi rõ các bước để tu Thiền:
Bài Kệ số 371: bước đầu tu Thiền là tập gom Tâm lại, tức là hết sức chú ý và tập trung tư tưởng.
- a. ...Hành Thiền tinh tấn, chớ thả Tâm quanh quẩn thú vui: theo dõi hơi thở, giữ chánh niệm và tỉnh giác thì Tâm phải ngừng lại, chẳng thể nào chạy lang thang theo thú vui bên ngoài được;
b. Phóng dật, nuốt hòn sắt nóng đỏ, Lửa điạ ngục thiêu, chớ than khổ!: Tỳ kheo nhận của bố thí mà chẳng lo tu- hành, phóng dật, lười biếng thì sẽ sa địa ngục, nuốt sắt nóng đỏ, uống nước đồng sôi. Người tại gia tu thiền mà giãi đãi, lúc tu lúc không, sẽ bị ngoại cảnh lôi cuốn theo các thú vui vật chất thấp kém, khiến sa vào cõi ác khi tái sanh. Đây là lời Phật cảnh cáo cho cả xuất gia và tại gia.
Bài Kệ số 372: tu Thiền đắc được Định và Huệ, tiến đến cảnh giác ngộ và giải thoát của Niết bàn.
- a. Chẳng có định tâm nơi người thiếu trí: người thiếu trí khi tu Thiền chẳng biết cách gom tâm lại để kéo dài sự chú ý, thì làm sao mà tâm an định được;
b. Chẳng có trí nơi người thiếu định tâm: điều nầy dễ thấy, vì người để tâm chạy lang thang, chẳng chú ý, làm sao nhìn rõ, thấy rõ, biết rõ cho được, đó chẳng phải thiếu trí hay sao;
c. ...Được cả hai Định, Huệ, ... kề bên bệ Niết bàn: Tâm an định, Trí huệ phát sáng, thấy đúng đường lối tu-hành, thì ngày chứng được Niết bàn đã gần kề.
Bài Kệ số 373: phương cách tập Thiền, chọn nơi vắng vẻ.
- a. Tỳ kheo đến ẩn nơi vắng vẻ: Đức Phật thường khuyên tỳ kheo nên vào rừng vắng để dễ tu Thiền; ngày nay ta có thể chọn căn phòng vắng, vào giờ thuận tiện sáng sớm, hay khuya trước khi đi ngủ, tâm dễ lắng yên, chẳng bị ngoại cảnh chi phối;
b. Tâm tư thường lặng lẽ an nhiên: đến nơi vắng chưa đủ, tâm còn phải vắng nữa, phải lặng lẽ nữa, mới đủ điều kiện để tập Thiền. Tâm lặng lẽ cách nào? Dẹp bỏ hết mọi ý nghĩ vẩn vơ, đuổi hết các ý nghĩ giận người nầy, thương người kia, ganh tị với bạn bè, v.v...
c. Chứng thông giáo pháp hành thiền: tu Thiền, nên có Thầy hướng dẫn, chẳng những tránh được các đường tẻ, khỏi lọt vào tà kiến, tà định, mà còn biết những điểm còn thiếu sót để sửa chữa.
d. Hưởng nguồn phỉ lạc siêu nhiên thoát trần: trong khi ngồi Thiền, quên được các mối lo âu nơi cuộc sống thế tục, chính giờ phút đó là đang hưởng nguồn phỉ lạc, vui sướng vì tâm trí được nhẹ nhàng.
Bài Kệ số 374: cách quán tưởng khi ngồi Thiền.
- a. Mỗi khi quán tưởng thấu rõ, Các uẩn khởi sanh rồi hoại diệt: đây là chọn đề tài quán tưởng về thân tâm ngũ uẩn. Ngồi Thiền, khi tâm bắt đầu an định, nhờ sức quán tưởng mạnh (= chú tâm), chiếu soi được các khía cạnh của đề tài, lần lượt nhận ra được chơn lý. Trong đề tài quán thân tâm ngũ uẩn, nhìn biết rõ sự khởi sanh của các ý tưởng bên trong, sự kéo dài trong khoảnh khắc và sự biến mất của chúng, đó là theo dõi được sự khởi sanh và hoại diệt của một ý tưởng trong tưởng uẩn. Với kinh nghiệm, sẽ chứng tánh cách vô thường, vô ngã của mỗi uẩn, mà nhận ra thân tâm năm uẩn vốn rỗng không.
b. Phỉ và lạc, tỳ kheo hưởng thọ, Chỉ bực Bất tử mới được biết: Chứng được định tâm, hành-giả cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, thấm nhuần một niềm vui thanh khiết, đó là phỉ. Vì biết rõ trong thời gian tịnh tu, tâm rỗng rang, chẳng vướng bận lo lắng, ưu phiền, đó là sự vắng mặt của Khổ, tức là đang hưởng Lạc, vui vì hết khổ trong lúc ấy. Kéo dài được tâm trạng thanh thản, an nhiên nầy, là các bực đã chứng được các quả vị Thánh, gọi là bực Bất tử (= hết bị tái sanh).
Tóm lại, đường lối tu Thiền: chọn nơi vắng vẻ, dọn sạch Tâm, chú ý mạnh, quán tưởng sâu, đắc định, và huệ sẽ chói sáng.
Nhóm ba:
Bài Kệ số 370: dành cho bực căn cơ cao, dạy phải dẹp mười kết sử, vượt qua năm dây ràng buộc, trau dồi năm sức mạnh tinh thần.
- a. Cắt đứt năm độn sử: trong số nầy, có ba kết sử chẳng quá khó vượt qua, để chứng được quả thứ nhứt là Tu đà huờn: đừng chấp chặt vào thân; dứt nghi về Chánh pháp; bỏ mọi mê tín tà đạo.
b. Dứt bỏ năm lợi sử: năm lợi sử khó dẹp là vì thiếu sự quân bình giữa định và huệ; giữ định, huệ bằng nhau, nhờ giới phụ giúp vào, sẽ chiến thắng nốt năm lợi sử.
c. Bực "Vượt Bộc lưu" là bực Thánh đã vượt qua được thác gành, nhờ trau dồi năm sức mạnh, để dẹp năm dây trói buộc. Kể ra thì nhiều, 5x4 món tất cả, người tu tại gia chỉ cần nhớ ba món độc: tham, sân, si, dồn nỗ lực để tiêu diệt chúng là được kề bên Niết bàn.