264. TÍCH CHUYỆN VỊ BÀ LA MÔN TÂNG BỐC CÁC VỊ TỲ KHEO A LA HÁN
Thuở ấy, ở nước Xá Vệ, có một người Bà la môn, được nghe đức Phật thuyết pháp, rất ngưỡng mộ giáo lý của đức Phật, nên thường thỉnh các vị tỳ kheo đến nhà để cúng dường. Khi các vị tỳ kheo đến khất thực, vị Bà la môn ấy cung kính gọi họ là các bực A la hán. Vì chưa chứng đắc được Thánh quả, nên các vị tỳ kheo cảm thấy bối rối, và sau cùng quyết định chẳng đến nhà vị Bà la môn ấy nữa. Vị Bà la môn rất thất vọng, chẳng hiểu vì lẽ gì mà chư Tăng chẳng đến nhà mình nữa, mới đến thưa trình cùng đức Phật.
Đức Phật cho gọi các vị tỳ kheo đã đến nhà người Bà la môn ra hỏi. Nghe họ trình bày sự thật, đức Phật hỏi: "Nầy các vị Tỳ kheo, trong số các vị có ai đã chứng được Thánh quả?" Chẳng ai trả lời có, đức Phật hỏi tiếp: "Khi nghe gọi mình là bực A la hán, trong tâm quí vị có khởi lên sự tự cao không?" Các vị tỳ kheo thưa, chẳng có. Đức Phật liền dạy: "Chẳng sanh tự cao khi được gọi tâng như thế là chẳng hề vi phạm giới luật. Sự thật là vì quá trọng vọng người tu hành, nên vị Bà la môn nầy mới gọi quí vị là bực A la hán. Các vị nên nỗ lực dẹp bỏ cho sạch lòng ham muốn được đề cao đi, và cố gắng tu tập, rồi sẽ chứng được quả vị A la hán".
Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
- Nầy Bà la môn,
Hãy tinh tấn đoạn dòng áí dục,
Thú vui vật chất nên lìa bỏ,
Các hành hoại diệt đà thấu rõ,
Hãy làm người chứng đắc vô vi.
(Kệ số 383)
A. NGHĨA CHỮ:
- Tâng: Nói nâng cao lên. Vị Bà la môn gọi các tỳ kheo chưa chứng đắc là các bực A la hán, gọi tâng họ lên hàng Thánh.
- Trọng vọng: Tỏ lòng quá kính mến.
- A la hán: Quả vị thứ tư, cao nhứt, vào hàng Thánh. Bực A la hán (Arahant) dẹp xong phiền não, lìa mọi tham muốn, chứng được vô sanh, nghĩa là chẳng còn bị tái sanh trong vòng Luân hồi nữa.
- Tự cao: Tự xem mình là hơn, còn gọi là ngã mạn. Tỳ kheo chưa chứng đắc, tự nhận mình đã chứng đắc, phạm tội tăng thượng mạn.
- Đoạn dòng ái dục: Đoạn là cắt bỏ đi, cắt đứt đoạn; Dòng ái dục là những sự say đắm, mê luyến, khởi từ các giác quan, như mắt muốn nhìn sắc đẹp, lưỡi muốn nếm vị ngon ngọt, tay muốn sờ vật láng v.v...
- Các hành: Hiểu cho gọn, các hành ở đây trỏ thân tâm năm uẩn.
- Vô vi: Vô = chẳng; Vi = làm. Sự vật ở thế gian chia ra hai loại:
- (1) Hữu vi, do tạo tác mà có, bị thay đổi, rồi hoại diệt, như thân tâm, như ngôi nhà, tức là những gì bị điều kiện hoá;
(2) Vô vi, chẳng do tạo nên mới có, chẳng biến đổi, như hư không, chơn lý, tức là chẳng bị điều kiện hoá. Ở đây, chữ vô vi trỏ vào cảnh Niết Bàn vắng lặng.
Tích chuyện thuật lại việc các vị tỳ kheo được tâng bốc, tỏ ra bối rối. Đức Phật dạy, khi được đề cao mà chẳng sanh lòng ngã mạn thì chẳng vi phạm giới luật.
Ý nghĩa Tích chuyện khuyên ta chớ nên sanh kiêu căng khi được ai nói... nịnh!
(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 383:
- a. Hai câu đầu: đoạn dòng ái dục tức là lìa bỏ mọi thú vui vật chất.
b. Các hành hoại-diệt đà thấu rõ: đã hiểu thấu thân tâm năm uẩn nầy, hiện có đây, rồi sẽ bị tan rã, đừng quá chấp chặt vào thân.
c. Câu chót: khuyên nên cố gắng tu hành để chứng được cảnh vô vi, tức là chứng được cảnh an vui, vắng lặng của Niết Bàn.
Thuở ấy, có một nhóm ba mươi vị tỳ kheo từ xa đến đảnh lễ đức Phật. Duyên may, Tôn giả Xá Lợi Phất cũng có mặt tại đó, quán thấy đã đến lúc cho ba mươi vị tỳ kheo chứng đắc được quả vị Thánh, A la hán. Tôn giả liền bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, thế nào là hai pháp?" Đức Phật đáp: "Nầy Xá Lợi Phất, hai pháp đó là Chỉ và Quán".
Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà các vị tỳ kheo chứng được quả vị A la hán:
- Khi an trú hai pháp: Chỉ, Quán,
Bà la môn đạt tới bỉ ngạn.
Đối với "người thông suốt" nầy,
Mọi kết sử đều đoạn tận.
(Kệ số 384)
A. NGHĨA CHỮ:
- (1) Tu đà huờn, còn sanh lại bảy lần;
(2)Tư đà hàm, còn sanh lại một lần;
(3) A na hàm, chỉ sanh lên cõi Trời, chẳng trở lại cõi trần; ba quả vị nầy thuộc bực Hiền, còn bị tái sanh;
(4) A la hán, chứng vô sanh, dứt cảnh tái sanh, được gọi là bực Thánh. Trái với Thánh hiền là phàm phu, chưa tu.
- Chỉ, Quán: Chỉ = ngưng lại; Quán = xem xét kỹ lưỡng, suy nghĩ sâu xa. Đây là hai pháp tu về Thiền định. Theo giáo lý Bắc tông, Thiền quán phân ra làm sáu phép tu, gọi là Lục diệu pháp môn:
- (1) Sổ tức, đếm hơi thở,
(2) Tùy tức, theo dõi hơi thở;
(3) Chỉ, ngưng tất cả ý nghĩ, tư tưởng lại;
(4) Quán, dùng tâm quán xét tâm, suy nghĩ sâu xa;
(5) Hoàn, quay trở lại;
(6) Tịnh, làm cho tâm trở nên trong sạch và yên tĩnh.
- Bỉ ngạn: Bỉ = kia; Ngạn = bờ. Bỉ ngạn là bờ bên kia, tức là bờ giác ngộ. Đáo bỉ ngạn là đến bờ giác ngộ bên kia; bờ bên nầy là bờ mê lầm.
- Người thông suốt: Người hiểu rõ mọi việc, tức là đã đạt được Trí huệ Bát nhã Ba la mật, cái Trí đưa ta đến bờ giác.
- Kết sử: Kết = ràng buộc; Sử = sai khiến. Có mười Kết sử ràng buộc tâm trí ta, xúi dục làm quấy, xin kể mấy kết sử chánh: tham, sân, si, mạn, nghi, khát ái v.v... Dẹp xong các kết sử, chứng A la hán.
- Đoạn tận: Đoạn = cắt đứt; Tận = dứt hết xong.
Tích chuyện thuật lại việc ba mươi tỳ kheo nghe được hai pháp Chỉ và Quán trong phép tu Thiền định mà chứng được quả A la hán. Chẳng phải chỉ đến nghe mà đắc quả ngay, vì còn phải tu tập nữa, tuy Tích chuyện chỉ kể ra vắn tắt như thế.
Ý nghĩa của Tích chuyện là nêu lên hai điểm quan trọng trong khi ngồi Thiền:
- a Dừng lại tất cả ý tưởng,
b. Quán sát thâm sâu tâm mình, theo dõi mọi biến chuyển bên trong, để chấm dứt vọng tưởng.
Bài Kệ nêu rõ công năng của hai pháp Chỉ và Quán, là dẹp tan mọi kết sử, chứng đắc Trí huệ Bát nhã, và được giác ngộ và giải thoát.
Xin phân tách từng câu:
- a. Khi an trú (trong)hai pháp:Chỉ, Quán: khi đã tu tập thật thuần thục cả hai pháp Chỉ (= ngưng được tất cả tư tưởng) và Quán (= theo dõi thật sát mọi biến chuyển trong tâm, suy nghĩ sâu xa), thì...
b. Bà la môn đạt tới bỉ ngạn: chữ Bà la môn, ở đây, có nghĩa là bực A la hán, bực ấy đã đến bờ giác bên kia, tức là đã hoàn toàn giác ngộ và giải thoát (nhờ an trú trong hai pháp Chỉ và Quán).
c. Đối với "người thông suốt" nầy, Mọi kết sử đều đoạn tận: Người thôn suốt, ở đây, là người đã đạt được Trí huệ Bát nhã Ba la mật, cái trí đưa ta đến bờ giác ngộ và giải thoát, người ấy chẳng còn bị các kết sử ràng buộc được nữa. Đó là nhờ công năng của hai pháp tu Chỉ và Quán, khiến tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh.