82. TÍCH CHUYỆN VỀ BÁ HI GIA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến việc người lái buôn Bá Hi Gia.
Thuở ấy có một nhóm thương gia ngồi thuyền vượt biển đi buôn xa. Chẳng may, thuyền bị bão tố lớn đánh chìm, các thương gia bị chết đuối, chỉ trừ một người sống sót, tên là Bá Hi Gia. Nhờ ôm được một khúc gỗ, Bá trôi dạt vào bờ, tấp vào hải cảng Sử Pha Kha. Mình trần truồng, Bá lấy miếng ván che thân, lượm được một cái bát, mới đến chỗ có người qua lại, để ăn xin. Nhiều khách bộ hành thương tình đem cơm cháo đến bố thí, có kẻ lại đem quần áo cho để che thân, nhưng Bá từ chối, vì sợ nếu ăn mặc theo người thường, sẽ ít được người bố thí. Lại có nhiều người trông thấy cảnh Bá che thân bằng tấm ván, tưởng đâu đó là bực tu hành khổ hạnh, đã chứng đắc được đạo quả A la hán. Tiếng đồn vang xa, rồi chính Bá cũng tưởng đâu mình là một bực A la hán thật, cứ tiếp tục sống trong tà kiến như thế.
Cho đến một đêm kia, Bá Hi Gia đang ngủ, bị một người đánh thức dậy. Người ấy là một bực chơn tu vốn là bạn thân với Bá Hi Gia trong một tiền kiếp. Người bạn nói: "Nầy anh Bá Hi Gia, anh đâu phải là người đã chứng đắc được đạo quả A la hán, sao anh lại dám nhận như thế?" Bá Hi Gia thật tình thưa: "Tôi cũng biết tôi có tội lớn, chẳng có tu hành chi mà chứng đắc được. Anh có biết trên thế gian nầy ai là người đã chứng được ngôi vị A la hán không?" Người bạn đáp: "Tôi có biết. Cách đây hơn trăm dặm đường, tại chùa Kỳ Viên, có tu sĩ Cồ Đàm chứng đắc được quả vị A la hán, là bực đã hoàn toàn giác ngộ và giải thoát". Bá Hi Gia mừng rỡ nói: "Tôi phải đến đây để xin Ngài chỉ dạy". Liền đó, Bá Hi Gia nhờ người bạn chỉ đường, lặn lội cả đêm ngày để đến chùa Kỳ Viên.
Vào sáng sớm hôm ấy, đức Phật cùng chư Tăng đang đi khất thực. Bá Hi Gia quần áo rách rưới, chân cẳng bị trầy sướt, quì bên đàng và thưa với đức Phật: "Bạch Ngài, con lặn lội đường xa đến đây, mong Ngài đem Chánh pháp ra chỉ dạy cho con". Đức Phật đáp, nay còn chưa phải thời, vì đang đi khất thực, hãy để đến khi khác. Nhưng Bá Hi Gia cố nài nỉ thưa rằng, đời người quá ngắn ngủi, chẳng biết rồi đây có bị tai nạn gì mất mạng sống đi chăng, xin đức Phật thương tình mà chỉ dạy ngay cho.
Đức Phật quán thấy đã đủ cơ duyên cho Bá Hi Gia chứng đắc đạo quả, nên Ngài liền dừng lại bên đường, giảng vắn tắt cho Bá Hi Gia nghe: "Nầy thiện nam tử, khi mắt nhìn một vật, chỉ nên thấy có vật; khi tai nghe tiếng, chỉ để ý đến tiếng; khi mũi ngửi, chỉ biết đến mùi hương; khi lưỡi nếm, chỉ nhận ra vị; khi có sự đụng chạm, chỉ cảm nhận được cảm giác; khi nghĩ đến một việc, chỉ ý thức đến việc ấy mà thôi". Khi chăm chú nghe xong lời đức Phật giảng, tâm trí của Bá Hi Gia liền khai ngộ và chứng đắc ngay quả vị A la hán. Bá Hi Gia liền thỉnh cầu đức Phật cho gia nhập Tăng đoàn. Đức Phật bảo Bá Hi Gia hãy đi lấy áo cà sa, bình bát và các thứ cần dùng của một tỳ kheo đem đến. Bá Hi Gia vâng lời; trên đường đi, rủi thay lại bị một con bò điên húc vào và ngã ra chết trên đống rác. Sau khi thọ trai xong, các tỳ kheo phát giác thi thể của Bá Hi Gia, vào trình đức Phật. Đức Phật bảo làm lễ hỏa táng cho Bá Hi Gia và lấy tro xương đem thờ nơi tháp.
Trở về chùa Kỳ Viên, đức Phật bảo chúng Tăng rằng, sau khi nghe Phật giảng mấy câu về Chánh pháp, Bá Hi Gia đã thấu hiểu nhanh chóng, đắc được đạo và quả A la hán, nên nay nhập vào cảnh giới Niết bàn. Trước sự ngạc nhiên của các tỳ kheo thấy Bá Hi Gia chỉ nghe có mấy câu trong Chánh pháp mà chứng đắc được quả vị Niết bàn, đức Phật mới bảo: "Một bài pháp đem lại lợi ích cho người, đâu cần phải dài dòng".
Rồi đức Phật mới thốt lên bài Kệ sau đây:
- Dầu có đọc một ngàn câu Kệ
Chẳng liên hệ đạo quả Niết bàn,
Sao bằng nói một câu Chánh pháp,
Nghe xong rồi, tâm được bình an.
(Kệ số 101)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
-
Bá Hi Gia: Tên người nầy tiếng Pali là Bāhiyadāruciriya.
-
Sử Pha Kha: Tên hải cảng nầy tiếng Pali là Suppāraka.
-
Hải cảng: Hải = biển; Cảng = cửa biển. Hải cảng là cửa sông đổ ra biển, nơi tu tập ghe thuyền buôn bán.
-
Đạo và Quả A la hán: Đạo = con đường, đường lối tu hành (Magga); Quả = quả vị, sự tu đã thành công (Phala). A la hán = quả vị Thánh, cao nhứt trong hàng Thanh văn(Sravaka), đã diệt được hết các lậu hoặc, phiền não, chẳng còn tái sanh trong cảnh Luân hồi nữa.
-
Tà kiến: Tà = xiêng xéo, sai lầm; Kiến = ý kiến. Tà kiến là ý kiến sai lầm.
-
Chơn tu: Chơn = chơn lý, đúng sự thật. Bực chơn tu là bực tu hành có đức hạnh cao.
-
Cồ Đàm: Họ của đức Phật Thích Ca; tiếng Pali là Gautama.
-
Hoàn toàn giác ngộ và giải thoát: Tức là thành Phật. Giác ngộ là thông hiểu tất cả mọi sự việc, đúng theo Chơn lý; Giải thoát là thoát khỏi mọi phiền não, lậu hoặc, chẳng còn bị tái sanh trong cõi Luân hồi nữa.
-
Chưa phải thời: Chưa phải lúc thuận tiện.
-
Cơ duyên: Cơ = cơ hội; Duyên = duyên cớ. Chữ cơ duyên hàm ý nghĩa là cơ hội may mắn đang đến.
-
Ý thức: Ý = ý tưởng; Thức = biết rõ. Có ý thức về việc gì có nghĩa là biết mình đang nghĩ ngợi và hiểu biết về điều ấy. Nhưng nếu biết mà chẳng để ý, thì chẳng gọi là có ý thức được.
-
Khai ngộ: Khai = mở ra; Ngộ = hiểu rõ. Trước còn chưa hiểu, nay nhờ nghe và suy nghĩ mà hiểu, mà biết, đó gọi là khai ngộ.
-
Bình bát: Cái bình giống như cái nồi nhỏ, để đựng cơm khi đi khất thực; bằng sành, bằng gỗ hay bằng đồng.
-
Hỏa táng: Hỏa = lửa; táng = đám ma. Hỏa táng là lễ thiêu đốt xác người chết.
-
Tháp: Ngôi mộ xây nhọn lên cao, thờ tro, xá lợi các bực tu hành.
-
Chẳng liên hệ đạo quả Niết bàn: Ý muốn nói, dầu có nhiều lời chẳng dính dấp chi đến việc tu hành để được giác ngộ và giải thoát, để chứng được cảnh an vui, vắng lặng của Niết bàn.
-
Tâm bình an: Tâm yên ổn. Ở đây, có nghĩa là tâm của bực A la hán, đã diệt xong các phiền não mà trở nên thanh tịnh, quân bình; và đang sống tự tại trong cảnh giới Niết bàn, chẳng còn phải tái sanh khổ sở nữa mà trở nên an nhiên.
B. NGHĨA Ý:
(1)
Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc một người biết ăn năn lỗi lầm gạt kẻ khác là mình đã chứng đắc quả vị A la hán, đến xin đức Phật chỉ dạy cách tu hành để được giác ngộ và giải thoát. Với một bài pháp ngắn, đức Phật dạy cách điều phục các căn: khi thấy, nghe, ngữi, nếm, sờ, nghĩ, chẳng để cho tâm bị cảnh vật bên ngoài và ý tưởng bên trong trì níu, lôi cuốn. Đó là pháp khiến tâm an tịnh, để bước vào ngưỡng cửa Niết Bàn.
Đấy là ý nghĩa quan trọng của Tích chuyện.
(2)
Ý nghĩa của bài Kệ số 101:
Cũng như bài Kệ số 100, bài Kệ nầy dạy ta phải biết nghe và hiểu Chánh pháp, thế nào để ứng dụng tu tâm. Chẳng phải học thuộc lòng muôn kinh ngàn kệ mà được giác ngộ và giải thoát. Hiểu rõ một câu và chí thành áp dụng, mới đem lại ích lợi thiết thực cho đường tu.
(3)
Một thắc mắc cần được giải nghi:
Trong hai Tích chuyện vừa qua, cả hai người, Tam Bá Đà và Bá Hi Gia, vừa nghe và hiểu xong Chánh pháp, khi ra về lại bị một con bò điên húc chết. Thắc mắc: họ nghe pháp rồi bị chết như thế thì có lợi ích chi đâu? Đừng nghĩ lầm như thế! Cả hai người vừa chứng được đạo quả, hai cái chết đột ngột đến chỉ là dịp cuối cùng cho họ trả xong được nghiệp báo đã qua, nếu không họ còn phải kéo dài cuộc sống khổ, trước khi sanh lên Trời, hay được nhập Niết bàn.
HỌC TẬP:
- Đọc kỹ lại lời dạy của đức Phật về cách điều phục các căn.