59. TÍCH CHUYỆN VỀ SA DI THI SA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến vị Sa di tên là Thi Sa, tu ẩn cư trong rừng.Thuở ấy, ở nước Xá Vệ có một người trẻ tuổi tên là Thi Sa, con nhà rất giàu có; người cha năng dâng cúng thực phẩm cho chư Tăng đi khất thực. Cha của Thi Sa thường thỉnh Tôn giả Xá Lợi Phất đến nhà thọ thực, nên Thi Sa có dịp gặp được Tôn giả. Năm lên bảy tuổi, Thi Sa được Tôn giả Xá Lợi Phất nhận làm đệ tử và làm Sa di tại chùa Kỳ Viên. Trong thời gian ngụ tại chùa, anh em, bà con thường đến thăm viếng Thi Sa, mang quà tặng đến biếu. Thi Sa nhận thấy các buổi thăm viếng như thế thường làm rộn cho mình và mất thì giờ cho việc tu hành. Thi Sa mới xin đức Phật chỉ dạy cho một đề tài thiền quán, và xin phép đi vào rừng, tu tập một mình. Mỗi khi, Thi sa vào làng khất thực, các thí chủ dưng cúng phẩm vật, Thi Sa chỉ thốt lên mấy lời ngắn ngủi: "Nguyện cầu thí chủ được an lạc. Nguyện cầu thí chủ thoát khỏi mọi khổ đau của cuộc đời". Rồi Thi Sa tiếp tục lên đường, trở về am cốc vắng vẻ một mình. Thi Sa tinh tấn tu tập ngày đêm, chẳng bao lâu đắc được đạo quả A la hán.
Sau mùa an cư kiết hạ, Tôn giả Xá Lợi Phất và đông đảo tỳ kheo tháp tùng, được phép đức Phật, vào rừng viếng thăm Sa di Thi Sa. Các thiện nam, tín nữ trong làng rất mừng, dâng cúng lễ vật, và thỉnh cầu Tôn giả thuyết pháp cho nghe. Nhưng Tôn giả từ khước và bảo: "Sa di Thi Sa trú ngụ ở đây, sẽ thuyết pháp cho các vị nghe". Nhưng một thiện nam lại bảo: "Thầy Thi sa chỉ biết nói có hai câu: Nguyện cầu thí chủ được an lạc. Nguyện cầu thí chủ thoát khỏi mọi khổ đau của cuộc đời! mà thôi, thì thuyết pháp làm sao?" Tôn giả Xá Lợi Phất liền bảo Thi Sa: "Thi Sa, con hãy giảng Chánh pháp cho mọi người nghe; con hãy chỉ làm cách nào để được an lạc và giải thoát được mọi khổ đau của cuộc đời".
Vâng lịnh Thầy, Thi Sa bước lên tòa ngồi, trong mấy giờ đồng hồ, thao thao bất tuyệt, giảng giải thế nào là ngũ uẩn, lực căn, lục trần, thế nào là ba mươi bảy phẩm trợ Đạo, thế nào là con đường dẫn tới đạo quả A la hán và Niết Bàn. Và chấm dứt lời giảng bằng câu kết luận sau đây:
"Đấy, các bực đã chứng đắc đạo quả A la hán được giải thoát mọi khổ đau của cuộc đời và hằng sống trong cảnh an lạc. Còn những kẻ khác cứ trôi lăn mãi trong cảnh khổ não của cuộc tử sanh Luân hồi".
Tôn giả Xá Lợi Phất hết lời ngợi khen Sa di Thi Sa đã khéo giảng giải Chánh pháp thật rành rẽ. Dân chúng nghe pháp, nhiều ngưòi thán phục, mà cũng có một số người còn thắc mắc tại sao Thi Sa thông hiểu Chánh pháp như thế, mà ngày thường chỉ thốt lên có hai câu nguyện cầu như thế. Bấy giờ tại chùa Kỳ Viên, đức Phật quán thấy tâm trạng của dân chúng còn phân vân, nên hôm sau, ngài cùng chư Tăng vào làng khất thực. Sau buổi ngọ trai và giảng pháp, đức Phật bảo dân chúng rằng: "Các ông rất may mắn có được thầy Thi Sa ở vùng nầy; nhờ đó mà chư tăng thường đến viếng làng".
Tối hôm đó, tại chùa Kỳ Viên, chư Tăng thưa cùng đức Phật: "Thầy Thi Sa đã làm được một việc khó làm: ở đây được nhiều người hiến tặng phẩm vật, thế mà thầy đã từ khước để đi vào rừng sâu tu tập khổ hạnh một mình". Đức Phật bảo: "Nầy các tỳ kheo, cho dầu sống nơi thành thị hay ở chốn thôn quê, một vị tỳ kheo giữ đúng giới hạnh chẳng bao giờ chú trọng đến của cải vật chất được hiến tặng. Nếu biết tập hạnh viễn ly, xa lìa con đường lợi dưỡng, danh vọng của thế gian, mà siêng tu tập Thiền định thì sẽ sớm chứng đắc được đạo quả A la hán".
Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
- Một đường dẫn đến lợi thế gian,
Một nẻo đưa ta tới Niết bàn.
Thông hiểu rõ hai đường sai biệt,
Vị tỳ kheo, đệ tử Phật đà,
Chẳng chút đắm say mùi danh lợi
Nỗ lực hành trì hạnh viễn ly.
(Kệ số 075)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
- Sa di: Người mới vào chùa tập sự tu hành, chưa thọ giới Tỳ kheo. Tiếng Pali là Sāmenara.A. NGHĨA CHỮ:
- Thi Sa: Tên thật của vị Sa di nầy, tiếng Pali là Tissa. Đừng lầm với vị tỳ kheo Thi Sa, trùng tên, nói ở Tích chuyện số 3, trang 9.
- Năng dâng cúng: Năng = siêng năng, thường hay làm.
- Thí chủ: Thí = bố thí, hiến tặng; Thí chủ là người hiến tặng.
- Thao thao bất tuyệt: nói rất trôi chảy, chẳng ngừng.
- Ngũ uẩn: năm uẩn:
- (1) Sắc uẩn.
(2) Thọ uẩn.
(3) Tưởng uẩn.
(4) Hành uẩn.
(5) Thức uẩn.
- (1) Mắt.
(2) Tai.
(3) Mũi.
(4) Lưỡi.
(5) Thân.
(6) Ý.
- (1) Sắc.
(2) Thanh.
(3) Hương.
(4) Vị.
(5) Xúc.
(6) Pháp.
- (1) Tứ niệm xứ.
(2) Tứ chánh cần.
(3) Tứ như ý túc.
(4) Ngũ căn.
(5) Ngũ lực.
(6) Thất giác chi.
(7) Bát chánh đạo.
- Quán thấy: Nhìn thấy qua cơn Thiền định.
- Phân vân: Còn nghi ngờ, chưa tin, chưa chắc.
- Viễn ly: Viễn = xa, rời; Ly = lìa. Hạnh viễn ly là hạnh xa lìa, chẳng tham luyến, rời bỏ, từ khước mọi danh lợi.
- Lợi dưỡng: Lối sống thụ hưởng tiện nghi vật chất thật đầy đủ.
- Phật Đà: Phiên âm chữ Buddha, Phật là hiểu biết, giác ngộ.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:Tích chuyện khen ngợi một vị Sa di trẻ tuổi biết thực hành hạnh viễn ly, tránh xa các lợi dưỡng của thế tục, vào rừng tu tập Thiền định.
Hạnh viễn ly là hạnh khước từ các lợi lạc về vật chất, tránh xa các thú vui của thế tục, dẹp bỏ sự tham luyến, hướng về sự giác ngộ và giải thoát. Đây là hạnh cao quí, tương đương với tâm xả, là một trong bốn tâm vô lượng của Bồ tát đạo: Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, Hỉ là chung vui cùng kẻ thành công, Xả là buông bỏ, chẳng bấu víu vào để tham luyến.
(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 075:
Thử phân tách bài Kệ nầy, như sau:
- Một đường dẫn đến lợi thế gian: đây là lối sống của người ở thế gian, lấy lợi làm mục tiêu để tranh đấu trong cuộc sống còn. Lợi ở thế gian gồm có tiền tài, nhà cửa, vợ đẹp con khôn, quyền thế, địa vị...
- Một nẻo đưa ta tới Niết bàn: đây là lối sống xuất thế, nghĩa là chẳng màng đến cảnh danh lợi của thế gian, vượt qua lối sống tranh đua giành giựt ở đời, để tiến lên mục tiêu giác ngộ và giải thoát của cảnh giới an vui thường hằng của Niết Bàn, khỏi còn bị khổ đau của sự tái sanh trong cõi Luân hồi nữa.
-Thông hiểu rõ hai đường sai biệt: biết rõ sự hơn kém giữa hai lối sống; lối thứ nhứt thoả mãn các thú vui tạm bợ ở một đời; lối thứ hai là lối sống từ khước mọi tiện nghi vật chất, để khắc phục các phiền não khiến tâm thanh tịnh, đạt được niềm vui vĩnh cửu là được giải thoát.
- Ba câu chót: đây là thái độ đứng đắn của tỳ kheo, chẳng đắm say mùi danh lợi, xa lìa mọi dục lạc, nỗ lực tu tập để chứng Niết bàn.
HỌC TẬP:
(1) Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ mục tiêu tu tập, bền chí trong việc dứt bỏ sự thèm khát, sự tham luyến.(2) Thử tập vài điều dễ làm về Hạnh viễn ly:
- Các món "ghiền" như ăn trầu, hút thuốc, ăn ớt, mê tuồng cải lương, nhâm nhi rượu đế, v.v. thử tập nhịn một vài lần, xem sao.
- Ghế mình thường ngồi, chén mình thường cầm, nay bị người khác lỡ dùng, thử xét xem trong bụng mình lúc ấy ra thế nào?