VÔ THƯỜNG

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Vothuong.jpg
Vothuong.jpg (303.54 KiB) Đã xem 6818 lần
VÔ THƯỜNG
Thích Giác Thiện

LỜI NÓI ĐẦU
Kiếp người ngắn ngủi vạn vật vô thường biến ảo, như đám mây lơ lửng giữa bầu trời hợp tan đã để lại trong lòng chúng ta biết bao lo âu, nuối tiếc và sợ hãi. Xâu chuỗi thời gian âm thầm lặng lẽ trôi qua cho đến khi tử thần gõ cửa ra đi để lại kẻ khóc tiến người đi nghìn thu vĩnh biệt.

Bản thân tôi là nhà sư thường đi đám tang, nên đã chứng kiến rất nhiều cảnh sanh ly, tử biệt bi ai, thảm thương khi nhìn thầy con cháu khóc ông bà, cha mẹ hay là ông bà, cha mẹ khóc con cháu; vợ chồng xa lìa ân ái, biệt ly, sầu bi, đổ lệ can trường.

Chứng kiến thảm cảnh đó, tôi mạo muội cố gắng sưu tầm lời Phật dạy và các tài liệu nói lên tính chất vô thường của chư Tôn đức kết lại thành "Tập Vô Thường" này. Đã nhiều lần muốn ấn tống, nhưng ngại mình đức mỏng, tài sơ chưa đủ khả năng làm nổi việc này. Nếu mãi e ngại hoài thì không làm được gì uổng phí một đời thọ ơn đàn na tín thí, chi bằng cố gắng viết hết những gì mình hiểu biết để báo đáp phần nào ơn đức Tam Bảo và đàn việt.

Nhờ sự hoan hỉ đóng góp của huynh đệ, cho nên cuốn Vô Thường này mới có dịp ra mắt quý vị độc giả xem qua, nếu có điều gì sơ xuất, thiếu xót, ngưỡng mong chư Thiền đức và quí Phật tử gần xa hoan hỷ đóng góp ý kiến cho quyển Vô Thường này được hoàn chỉnh hơn.

  • "Trần thế chỉ là chỗ tạm nương,
    Cũng như quán trọ ở ven đường.
    Mỗi người là khách dừng chân tạm,
    Rồi sẽ đi về chốn viễn phương
    ".
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
DẪN NHẬP
Ánh sáng giác ngộ của đức Phật đã soi sáng và sưởi ấm tâm linh của vô lượng chúng sinh trong đêm dài vô minh. Đã gần hai mươi sáu thế kỷ nhưng lời dạy của ngài vẫn còn vang vọng đâu đây: "Thế gian là vô thường, cõi nước mong manh, bốn đại khổ không, năm ấm vô ngã, luôn luôn sinh diệt biến đổi, giả dối không thật. Nên quán sát được như thế thì thoát khỏi sinh tử".

Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật nhằm đánh thức con người sớm giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn khổ đau, chỉ có giác ngộ mới vượt qua mọi khổ đau. Để cứu khổ chúng sinh, đức Phật chỉ cho chúng ta thấy thân này là vô thường, tâm không thật, vạn vật đều giả tạm, nếu chúng ta giác ngộ được giáo lý vô thường khéo ứng dụng nó vào trong cuộc sống tu hành thì mọi phiền não khổ đau không còn nữa, rồi lần lần tiến lên Phật quả.
  • "Hãy nhìn như bọt nước
    Hãy nhìn như điển chớp
    Hãy nhìn như mộng huyễn
    Thần chết không bắt gặp
    ".
    • Kinh Pháp Cú
Quyển Vô Thường này tuy đơn giản nhưng nội dung lại bao quát nhiều khía cạnh, mang tính chất xây dựng cả đạo lẫn đời và đáp ứng những thắc mắc như: Thế nào là thân vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh vô thường, làm sao cho thân tâm được thanh tịnh? Muốn tránh sự sợ hãi trong lúc lâm chung hằng ngày phải làm gì? Chết có hết khổ không và sau khi chết đi về đâu...? Khi xem quyển Vô Thường này, quý Phật tử nên xem chầm chậm, có đoạn tạm dừng để tư duy, nghiền ngẫm cho tận tường, nhiều lần như vậy mới nhận ra được sự vi diệu vô biên của Phật pháp. Rồi tu cho thuần thục sẽ đạt được bản nguyện thoát ly sanh tử.

Nếu quyển Vô Thường này có chút gì lợi ích cho chúng sinh, thì đó là diệu dụng của Pháp bảo. Xin hồi hướng công đức lành này cầu cho chánh pháp được cửu trụ Ta Bà, mọi loài sớm thoát đường mê, quay về nẻo giác, từ bỏ sát sanh hại vật, phát tâm quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới, ăn chay, niệm Phật, bố thí, phóng sanh. Người người biết lấy lòng từ bi quý kính lẫn nhau, thế giới hết nghiệp binh đao, mưa hòa gió thuận, quốc thới dân an. Muôn loài dứt sạch phiền não, oan trái, nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm an lạc, phước huệ song tu, đạo quả chóng viên thành, âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VÔ THƯỜNG
  • I. ĐỊNH NGHĨA
- Vô Thường là thế nào?

Quý Phật tử hay tư duy lời Phật dạy:

Vô thường có nghĩa là không bền chắc, từ trạng thái này biến đổi qua trạng thái khác, và tan hoại theo định luật: Thành, Trụ, Hoại, Không.

Để quý Phật tử hiểu thế nào là Thân Vô thường, Tâm Vô thường, Hoàn cảnh Vô thường. Chúng ta hãy cùng nhau quan sát, suy nghiệm thì sẽ biết ngay.
  • II. THÂN VÔ THƯỜNG
Nói đến Thân Vô thường, nó Sanh - Diệt từng giây, từng phút, xâu chuỗi thời gian âm thầm đẩy đưa chúng ta tiến dần vào cõi chết.

Khoa học cũng đã chứng minh các tế bào trong cơ thể con người luôn luôn thay đổi làm cho ta mau lớn, chóng già rồi chết. Mỗi giây phút trong cơ thể đều có sự Sanh - Diệt không ngừng.

Nói đến Vô thường, trong kinh Kim Cang đức Phật dạy:
  • "Tất cả các pháp trong đời,
    Cũng như giấc mộng khác gì huyễn thôi.
    Tựa hồ bọt nước dòng khơi,
    Mảnh thân bào ảnh chút hơi xương tàn.
    Ngày qua chớp nhoáng lẹ làng,
    Phải nên suy xét hợp tan đó là
    ".
Thật vậy, cái thân con người chẳng khác nào tuyết gá cành cây, sương đầu ngọn cỏ, mới thấy đó rồi lại mất đó.

Đứng trước thảm trạng ấy, Thái tử Tất Đạt Đa nghiệm thấy thân này là Tứ khổ, nên ngài xuất gia đắc đạo hiệu là Thích Ca Mâu Ni, đem giáo pháp cứu độ chúng sanh đưa họ vào cõi Niết Bàn bất sanh bất diệt.

Thưa quý Phật tử, cái thân của ta có gì là thật đâu? Tất cả không ai thoát khỏi cảnh Sanh, Lão, Bệnh, Tử.

Từ khi còn nằm trong bụng mẹ đã là khổ rồi, bốn bên bao bọc đen tối chẳng khác nào ở chốn ngục tù đầy nhơ uế. Đến lúc chào đời cho tới khi trưởng thành, trải qua không biết bao nhiêu là bệnh hoạn, tai nạn, âu sầu, khổ não lúc nào cũng rình rập bên mình. Tuổi về chiều lại càng khổ hơn, da nhăn, má hóp, răng rụng, tóc bạc, thân thể gầy yếu, đi đứng khó khăn, đau ốm triền miên, khổ không tả xiết, lần hồi bước vào cõi chết.

Trong giờ phút hấp hối tâm thần rối loạn, vẩn vơ, kinh sợ vô cùng, rồi lần mòn đến lúc lâm chung, từ giã cõi đời tạm bợ theo đường Tội - Phước, dẫu cho có nhiều phương thuốc ngừa trước, ngăn sau cũng không thoát khỏi luật Tuần hoàn.

Nói đến cái chết, trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, kể rằng:

Thuở đức Phật còn tại thế, một hôm ngài cho gọi chư Tỳ kheo đến hỏi rằng:

- Mạng người sống được bao lâu?

Vị thứ nhất thưa rằng:

- Mạng người sống được một trăm năm.

Vị thứ hai nói sống được bảy mươi năm. Còn vị thứ ba bảo vài tháng, vài ngày v.v...

Sau cùng, có một vị đứng lên thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Mạng người sống chỉ có một hơi thở.

Phật khen rằng:

- Ông hiểu và nói được như vậy mới thật là người giác ngộ.

Thật vậy, chúng ta sống được là nương vào hơi thở, hễ thở ra mà không hít vào là ôi thôi: "Ô hô! Tam thốn khí tại thiên bang dụng. Nhứt đán vô thường vạn sự hưu".

Hơi thở vừa dứt mạng người ôi cũng dứt. Nào của cải, vợ con, tài vật đều bỏ lại. Nhắm mắt rồi cũng nắm tay không. Bất luận hàng vương giã hay thứ dân, giàu nghèo, sang hèn, ai ai rồi cũng phải chết.
  • "Thân này nào có ra chi?
    Của kia lại có chắc gì mà ham
    "
Hay là:
  • "Sau đường ân ái hai tay trắng,
    Cuối lớp ân tình nấm mộ xanh
    ".
Vậy mà thiên hạ cứ nghĩ mình sống hoài muôn đời trên vũ trụ, nên họ cứ mãi giành giựt cấu xé lẫn nhau, ai cũng tham giàu sang quyền tước. Nhưng cho dù có kho vàng, núi bạc, lộc cả quyền cao, gác tía lầu son, ngọc ngà châu báu, tất cả đều bị định luật Vô thường đào thải. Có nghĩa lý chi mà thiên hạ lại nỡ đang tâm sát phạt, tranh giành, chung qui rồi cũng trở về với cát bụi...

Nói đến đây tôi nhớ đến mẫu chuyện thuở Phật còn tại thế:

Một hôm, ngài cùng tôn giả Tích Sa đứng trên một ngọn núi gần biển. Phật hỏi:

- Này Tích Sa! Ông có thấy trước mắt ông là gì không?

Tôn giả Tích Sa thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con chỉ thấy trước mắt con toàn là biển nước mênh mông.

Nhân đó đức Phật dạy: "Cũng vậy, nước mắt của chúng sanh khóc vì những nỗi khổ của mình và đưa tiễn người thân đi vào cõi chết từ vô thỉ đến nay nhiều hơn là nước biển của đại dương, còn xương thịt chất chồng cao hơn cả núi Thái Sơn".

Một hôm khác, đức Phật cho gọi các Tỳ kheo đến và hỏi:

- Sắc là thường hay vô thường?

Chư Tỳ kheo đáp:

- Sắc là vô thường.

Phật lại hỏi tiếp:

- Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường, là khổ hay là lạc?

- Bạch Thế Tôn, là khổ.

- Vậy các ông có nên chấp cái thân này là tự Ngã của ta, vật chất là của mình không?

- Bạch Thế Tôn! Chúng con không nên chấp vì thân mạng, của cải, vật chất đều là vô thường giả tạm.

Phật dạy: "Các ông nên nhớ từ hiện tại, quá khứ cho đến vị lai, không có cái gì là tự ngã của ta. Cho đến Thọ, tưởng, hành, thức cũng là như thế. Các ông phải quan sát như vậy để nhàm chán xa lìa nó mà thẳng tiến trên con đường giải thoát tri kiến".

Cái thân này là vô thường giả tạm. Vậy mà người ta cứ lầm chấp cho nó là thật. Họ quan niệm là Vật dưỡng Nhơn, nên thẳng tay sát hại vật. Nhưng thử hỏi muỗi mòng, lang sói... chúng nó cũng có quyền nói: "Người sanh ra nhơn để dưỡng vật được sao?"

Chẳng qua là Khôn sống - Dại Chết, Mạnh được - Yếu thua, là chuyện xưa nay.

Tại sao người con Phật phải trường trai giới sát? Vì con cá cắn câu thì hoảng sợ. Con chim thấy cung tên, súng đạn liền vỗ cánh bay cao. Ngựa trâu còn chảy nước mắt ròng ròng khi sắp bị đập đầu, thọc huyết.

Điểu thú còn tham sống sợ chết, tại sao ta đành lòng giết chúng mà ăn. Ban đầu, người giết cầm thú, sau rồi người lại giết người. Bởi quen mùi máu tanh hôi, nên sanh ra hiếu sát, chiến tranh giặc giã, giết hại lẫn nhau.

Ôi sơn hào hải vị, một bữa ăn mà kẻ khóc người than, thú kia chết thảm gây thù kết oán luân hồi thường mạng lẫn nhau, chi cho bằng cơm rau đạm bạc cũng qua ngày hai buổi rảnh chí tu hành.

Bởi vậy tôi ước mong sao mọi người trên thế gian hãy xót thương tất cả muôn loài. Vì chúng đều có tri, có giác, ta đừng làm cho nó đau khổ. Đó là lẽ đạo Từ bi mà đức Phật từng dạy các hàng đệ tử.

Đời người chẳng khác nào như con thuyền lạc giữa phong ba, bôn ba giành giựt sát sanh, hại vật ăn cho vinh thân phì da, rốt cuộc rồi cũng chết. Con người vì thân mà gây ra lắm oan nghiệp nên khổ trước chưa nguôi, sầu sau đã tới.

Nói đến cảnh khổ của kiếp người thuở Phật còn tại thế, một hôm, vua Ba Tư Nặc cũng bá quan văn võ xa giá đến yết kiến đức Phật và thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Con là vua Ba Tư Nặc cai trị nước Câu Tác La có bốn binh chủng hùng mạnh. Hôm nay con đến viếng thăm đức Thế Tôn". Vua Ba Tư Nặc nói như vậy là nhằm để khoe khoan với đức Phật, ông là vị vua hùng mạnh nhất thời đó để cho đức Phật khen ngợi. Nhưng ngược lại đức Phật không khen mà còn hỏi rằng: "Này Đại vương, giả sử như ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc có bốn ngọn núi cao chọc trời đang lăn về đây, mỗi khi di chuyển đến đâu là nghiền nát người và vật đến đó, thử hỏi Đại vương lấy cái gì ra để chống ngăn nó?"

Vua Ba Tư Nặc ngẫm nghĩ thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Con không thể nào đem bốn binh chủng, kho tàng, thần dân ra mà ngăn chống được, vì nếu đem ra sẽ bị nó nghiền nát hết".

Nhân đây đức Phật dạy: "Đúng như vậy đó Đại vương, bốn ngọn núi chính là: sinh, lão, bệnh, tử.

Này Đại vương lắng nghe! Vì người đời ngu ám không có chánh trí, nên nhiều kẻ say mê vui đời mà chẳng hề biết tội phước là gì cả, nên thường bị tứ khổ:
  • 1. NHỮNG NỖI KHỔ VỀ SANH:
Khi còn nằm trong bụng mẹ hài nhi chịu rất nhiều nỗi khổ; nếu mẹ ăn đồ nóng hoặc uống nước lạnh thì như nằm trong lò lửa, hầm băng. Khi mẹ đói cơm khát nước, thai nhi lỏng bỏng khó chịu, mẹ ăn no lấn ép khó bề cựa quậy. Lúc sanh thân con đau đớn, mạng mẹ nguy hiểm, lòng cha lo sợ. Ra khỏi lòng mẹ da thân mềm mỏng, chạm phải những vật bên ngoài đau như là dao cắt, hoảng hốt thất thanh khóc vang.
  • 2. NHỮNG NỖI KHỔ VỀ GIÀ:
Lúc nhỏ nhờ ơn nuôi nấng của cha mẹ, lớn lên đương đầu với cuộc sống đầy gian lao cực khổ để mưu sinh, lần hồi đến ngày già yếu, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưỡi đớ, tay chân run rẩy đi đứng khó khăn, trí huệ lu mờ sanh ra lẫn lộn, ăn dơ uống bẩn, nói năng giống như người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi, có khi lại chửi bới, nói năng nhảm nhí làm trò cười cho lũ trẻ...
  • 3. NHỮNG NỖI KHỔ VỀ ĐAU:
Thân người do bốn đại là: đất, nước, gió, lửa hiệp thành. Nếu như bốn đại không điều hòa thì bệnh sanh khởi; như địa đại chẳng điều hòa thì thân thể nặng nề, thủy đại chẳng điều hòa, thân thể phù thủng, hỏa đại chẳng điều hòa thì thân thể nóng nảy, phong đại chẳng điều hòa, thân thể động chuyển, đau đớn như kim châm lửa đốt.

Chính vì bốn đại không điều hòa cho nên sanh ra vô số chứng bệnh nào là: cùi phong, ghẻ lở, ung nhọt, cảm sốt, nhức đầu đau răng, bại liệt... làm cho khí lực hao mòn, miệng khô lưỡi thụt, mũi nghẹt, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, những đồ nhơ nhớp tuôn trào rồi ngồi nằm trên ấy! Tấm thân khổ não giọng nói bi ai, buồn thảm, món ngon vật lạ khi đưa vào miệng đều biến thành vị đắng.
  • 4. NHỮNG NỖI KHỔ VỀ CHẾT:
Thân người đến lúc sắp chết, thời bốn đại phân tán thần thức chẳng an, đụng đến như dao cắt, đau nhức toàn thân, toát mồ hôi, mệt ngột không ngằn, trợn mắt, méo miệng, giựt gân, uốn mình, vặn tay, bẻ chân... hai tay buông xuôi. Phong đại tản đi là hết hơi thở, hỏa đại đi là tâm thân lạnh ngắt như đồng!

Cho dù Đại vương có bao nhiêu binh chủng, kho tàng, thần dân đi chăng nữa cũng không thể nào đối đầu với tử thần, chỉ có nước bó tay, cởi giáp đầu hàng mà thôi".

Sau khi chấm dứt pháp thoại, vua Ba Tư Nặc thức tỉnh, hoan hỷ tín thọ phụng hành lời Phật dạy.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 09/09/14 05:01 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Mạng người mong manh sớm còn tối mất, vô thường chợt đến không ai tránh khỏi. Xưa có bốn anh em dòng đại Phạm chí đều có thần thông biết sẽ chết, cùng bàn với nhau rằng: "Cái chết sắp đến với chúng ta, vậy hãy mau ẩn tránh".

Khi bàn tính xong ông thì bay lên hư không, ông vào trong biển, ông nữa vào giữa núi Tu Di, còn ông thứ tư tới chợ trốn giữa đám đông. Nhưng đến ngày chết thời bốn ông đều mạng vong.

Nếu ai biết suy nghĩ đạo lý vô thường, khổ, không, vô ngã này, khéo tu tập theo lời Phật dạy, thời thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não, đạt dến đạo quả Niết Bàn vậy (Kinh Xuất Diệu).
  • "Dầu trốn ở hư không
    Giữa biển khơi, núi rộng
    Không một nơi nào cả
    Tránh khỏi được tử vong
    ".
    • Kinh Pháp Cú
Trong kinh A Hàm, Phật dạy: "Tất cả không ai tránh khỏi sanh, lão, bệnh, tử. Vậy mà có lắm người khi thấy ai đó già, bệnh, chết lại sanh tâm khinh khi nhờm gớm, nhưng họ lại quên rằng rồi đây mình cũng già, bệnh, chết...!"

Nhớ lại thuở đức Phật ở Trúc Lâm Tịnh Xá, có một thầy Tỳ kheo mắc bệnh lở lói khắp cả thân thể, máu mủ thường chảy ra ai thấy cũng sợ hãi không dám lại gần. Nhìn thảm cảnh ấy đức Phật đến chỗ vị Tỳ kheo tự tay trông nom, săn sóc cho đến khi bình phục.

Đó là tấm gương từ bi của Phật, chúng ta là đệ tử ngài không thể dửng dưng, làm ngơ trước sự đau khổ của nhân loại mà không ra tay cứu giúp...! Chăm sóc cho người bệnh, một là ta cảm nhận thân này bất tịnh, để nhắc nhở trên đường tu tập, hai là tích lũy phước lành cho mai sau. Ngược lại, thấy người già yếu, bệnh hoạn mà hủy báng, khinh thường, khạc nhổ làm ngơ... sau này kẻ đó bị quả báo khi bệnh không ai ngó tới, mọi người tránh xa. Thân này quả thật là nơi chứa nhóm các thứ bệnh hoạn, tai nạn.

Thuở xưa, đức Phật an trú tại nước Xá Vệ, lúc đó có bốn vị Tỳ kheo ngồi dưới gốc cây cùng bàn với nhau: "Trên đời này cái gì khổ hơn hết?"

Vị thứ nhất nói:

- Đói khát là khổ hơn hết, vì những khi đói khát, thân ốm, mắt mờ, lòng dạ chẳng yên, thật là khổ.

Vị thứ hai than:

- Sân hận mới là cái khổ lớn nhất, mỗi khi nổi giận là chẳng kể thân sơ và lắm khi hại mình, hại người nữa.

Vị thứ ba bảo:

- Lo sợ thật là khổ không gì bằng, mỗi khi sơ hãi thì tim đập mạnh, tay chân run rẩy, đứng ngồi chẳng yên, rất nguy hiểm đến tính mạng.

Vị cuối cùng nói:

- Cái khổ trong đời không gì hơn dâm dục, mỗi khi sắc dục bức bách thì không chỗ nào là không nghĩ tới. Cũng nhơn đó rồi bị nguy thân mất mạng. Nó báo hại hơn cả.

Vì bất đồng ý kiến nên họ cứ tranh luận mãi.

Đức Phật biết được, ngài liền đến hỏi: "Các ông đang tranh luận việc gì?"

Các Tỳ kheo đứng lên làm lễ rồi trình bày nhưng điều đang bàn luận.

Đức Phật bảo: "Những điều các ông vừa bàn luận đó chỉ là thứ khổ ngọn ngành, chưa hiểu hết ý nghĩa của chữ khổ, cội gốc của cái khổ trong đời không gì hơn là có thân. Tất cả sự đói khát, nóng bức, sân hận, kinh sợ, sắc dục, thân là gốc của khổ, nguồn tai họa, cũng vì thân mà người ta lao tâm mệt trí, lo sợ đủ điều. Vì nó mà chúng sinh gây thù, chuốc oán, tàn hại lẫn nhau. Chấp ngã buộc ràng, sinh tử không dứt cũng đều do nơi thân này mà ra. Muốn xa lìa đau khổ trong hiện tại và vị lai thì chúng ta phải nhiếp tâm theo đạo chánh, không khởi những vọng tưởng sai lầm, tinh tấn trì giới, thiền định, có trí huệ mới mong đạt được Niết Bàn an vui tịch diệt".

Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ:
  • "Nóng không gì hơn dâm
    Độc không gì hơn giận
    Khổ không gì hơn thân
    Vui Niết Bàn hơn hết
    ".
Bởi vậy những ai là bậc hiền trí phải kíp mau tự lợi bằng cách nương về Tam Bảo, huân tập những tài sản của bậc thánh, đó là thất thánh tài:
  • 1. Tín;
    2. Giới;
    3. Tàm;
    4. Quí;
    5. Đa văn;
    6. Trí huệ;
    7. Xả ly.
Tín là phải vững niềm tin nơi Tam Bảo:
  • - Phật là đấng toàn năng toàn giác, đáng để cho chúng ta tôn thờ tín ngưỡng.
    - Pháp có công năng diệt trừ phiền não, tham, sân, si.
    - Tăng là người đại diện cho Phật duy trì mạng mạch Phật pháp làm lợi ích an lạc cho chúng sinh.
Giới là hàng rào ngăn chận các điều ác.

Tàm, Quí là biết xấu hổ những tội lỗi của mình, ăn năn cải sửa các lỗi lầm để trở nên người Chơn Thiện Mỹ.

Đa văn nghĩa là ngoài việc mưu sinh ra, quý Phật tử nên nhín chút ít thời gian nghe kinh, học pháp để làm hành trang trên đường tu tập. Nhờ học hỏi giáo lý mà mình biết đâu là thiện ác, tốt xấu, phải trái, việc gì nên làm, việc gì không nên làm, từ đó phát sinh trí huệ, nhờ có trí huệ mới Xả ly hết những kiến chấp sai lầm, vụn vặt thẳng tiến trên con đường giải thoát.
  • "Niềm tin và giới hạnh
    Hổ mình thẹn với người
    Đa văn, thí, trí huệ
    Đây là bảy món báu
    Nhờ tín nên giữ giới
    Thường làm việc bố thí
    Không luận nam hay nữ
    Trọn đời không đói nghèo
    ".
    • Kinh Pháp Cú
Có nhiều người nhờ căn lành đời trước, gặp được thiện tri thức khuyên nhắc qui y giữ giới, tụng kinh niệm Phật, bố thí, phóng sanh để tích lũy phước đức về sau. Họ lại trả lời rằng tuổi tôi còn trẻ, đời còn dài, tương lai tươi sáng dang chờ đón dại gì phải tu cho uổng phí tuổi xuân...! Chính vì thế nên Tổ xưa khuyên bảo rằng:
  • "Mạc đãi lão lai phương niệm Phật
    Cô phần đa thị thiếu niên nhân".
Nghĩa là:
  • "Chớ đợi đến già mới niệm Phật
    Mồ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh
    ".
Quý Phật tử ra nghĩa địa hay đến nhà cửu huyền thời thấy rõ nơi đó không từ bất cứ một ai. Quý Phật tử nên nhớ rằng con quỉ vô thường lúc nào cũng rình rập bên chúng ta, không hẹn mà đến, không mời mà tới. Mỗi khi nó đến thì bất luận Tăng, tục, già, trẻ, sang, hèn nó sẽ đưa chúng ta đến lò thiêu hay nghĩa địa hoang vắng xa xôi cô tịch. Nơi ấy dẫu thông minh, tài trí anh hùng, khôn dại chung qui rồi ai cũng chết. Kiếp phù sinh là thế đó, như ngọn đèn trước gió không biết nó tắt giờ nào. Đời người ảo ảnh phù du cuối cùng rồi cũng nhắm mắt xuôi tay, tạ thế đi về âm cảnh với hai bàn tay trắng mà chẳng gieo được một chút phước duyên thì thật là đáng tiếc vô cùng!

Vì thế nên Khổng Tử than rằng:
  • Sinh tiền bất tri thiên đường lộ
    Tử hậu nan ly địa ngục môn".
Có nghĩa là lúc sống mà không biết làm việc lành, thời sau khi chết khó mà thoát khỏi cửa địa ngục.

Nhân đây tôi xin dẫn câu chuyện trong Khế Kinh kể rằng: "Ở trên nhân gian có một người chuyên làm việc ác, đến khi chết bị quỷ sứ bắt dẫn đến vua Diêm vương. Vua hỏi:

- Ở trên nhân gian sao ngươi không chịu làm việc thiện, gây chi ác nghiệp để rồi phải bị đọa đày xuống đây khổ sở như này.

- Thưa Diêm chúa, ở trên nhân gian nhà nước làm việc gì còn phải thông báo trước. Sao ngài khi không bắt tôi ngang như thế này thử hỏi làm sao tu cho kịp.

- Người có thấy người già, người bệnh, người chết không?

- Thưa ngài, tôi thấy.

- Đó là những thông điệp mà ta gởi đến người phải biết rằng ai ai rồi cũng phải chết, tại sao ngươi không lo tu?

- Thưa ngài, tôi cũng chưa phải là già lắm, tại sao ngài lại bắt tôi?

- Ngươi có thấy những người còn trẻ mà vẫn phải chết không?

- Thưa Diêm chúa tôi thấy.

- Ngươi phải hiểu rằng cho dù già, trẻ, lớn, nhỏ gì tới số đều phải chết, tại sao không lo tu mà còn biện luận lôi thôi.

Anh ta vội quỳ xuống thưa rằng:

- Tôi thấy nhưng vì quá ngu mê nên mới gây ra ác nghiệp, mong Diêm chúa từ bi tha thứ.

Diêm chúa phán rằng:

- Tội của ngươi làm ra không phải cha mẹ hay đấng thiêng liêng quyền thế nào xúi dục, mà chính tự ngươi làm thì ngươi phải chịu, không có nói năng dài dòng gì nữa. Ngục tốt đâu dẫn nó vào ngục hành hình cho ta.

Thế nên người xưa mới than rằng:
  • "Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh,
    Quỷ sứ đòi khóc một khóc hai
    "
Quý vị nào đầu tóc điểm bạc đó là thiên sứ đến báo tin rồi, ráng lo tu kẻo trễ. Có nhiều bà cụ đi chùa lễ Phật, tôi thấy vậy mới khuyên: "Cụ già rồi không biết chết giờ nào, ráng lo niệm Phật, làm hoài cũng vậy biết bao nhiêu mà cho đủ, để cho con cháu nó làm, cụ lo niệm Phật để đức lại cho nó. Hơn nữa, nhờ niệm Phật khi chết được Phật được Phật rước về Cực Lạc an lành, chớ con cháu, của cải không cứu mình được".

Bà cụ nói: "Sư bảo như vậy cũng phải, nhưng mấy đứa con của tôi còn nhỏ lập gia đình chưa hết, để khi nào nó yên bề gia thất rồi tôi mới rảnh lo tu".

Mới nghe qua tôi thấy cũng có lý. Nhưng khi con nó lập gia đình xong, không bao lâu lại sinh ra cháu. Phận làm cha mẹ thật là khó xử, con nó bận đi làm không ai giữ cháu, thấy vậy không đành lòng rồi cứ tiếp tục lo cái này xong lại có cái khác, cái khác vừa xong lại có cái khác nữa, cứ thế mà lo mãi cho đến khi ngã ra chết mà cũng chưa rảnh để tu.

Cho nên trong kinh Ni Ka Ya, Phật nói:
  • "Hôm nay nhiệt tâm làm
    Ai biết chết ngày mai
    Không ai điều đình được
    Với đại binh thần chết
    ".
Khi tử thần đến gõ cửa, mình nói khoan để chậm lại vài năm nữa cho tôi tu có được không? Chuyện đó không bao giờ có, vì:
  • "Diêm vương chỉ định canh ba chết
    Không thể nán lại đến canh năm
    ".
Hỡi ôi! Tất cả già, trẻ, sang, hèn ai rồi cũng phải chết. Bởi vậy, chúng ta không tu nhiều được thì cũng nên tu ít, chớ có hứa hẹn, bất luận là người ngoài đời hay trong đạo, tánh giải đãi rất tối kỵ trong sự thành công.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 09/09/14 05:06 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Than ôi! Lo giàu nghèo lo mãi cũng không xong, hẹn khi khác mới tu. Thử hỏi khi khác tới bao giờ mới có. Chúng ta phải suy xét thấy việc gì cần làm thì làm ngay, đừng hẹn ngày mai, vì ngay mai là ngày đen tối của tử thần chờ nó để làm gì. Cho nên trong kinh đức Phật đưa ra hình ảnh bốn con ngựa để ví dụ cho bốn hạng người:
  • - Con ngựa thứ nhất vừa thấy bóng roi đã chạy.

    - Con ngựa thứ hai nhịp roi lên lưng mới chịu chạy.

    - Con ngựa thứ ba đánh cho thiệt đau mới chịu chạy.

    - Con ngựa thứ tư đánh chết bỏ, lúc lắc chứ không chịu chạy.
Nói đến đây, đức Phật dạy con người ta cũng thế:
  • - Con ngựa thứ nhất, chỉ cho người trí vừa nhìn thấy trong xóm có người chết là họ lo tu liền. Giống như con ngựa thứ nhất vừa thấy bóng roi liền chạy.

    - Con ngựa thứ hai, chỉ cho ai đó thấy người thân trong gia đình chết mới chịu phát tâm tu. Giống như con ngựa thứ hai nhịp roi lên lưng mới chịu chạy.

    - Con ngựa thứ ba, chỉ cho kẻ thấy người trong xóm chết họ cũng không tu, cho đến trong gia đình có người chết cũng chưa nhúc nhích, đến khi chính bản thân họ bị bệnh thập tử nhất sanh, khi đó mới cảm nhận xác thân này là vô thường giả tạm mới chịu phát tâm tu. Giống như con ngựa thứ ba đánh cho thiệt đau mới chịu chạy.

    - Con ngựa thứ tư, chỉ cho hạng người nghiệp chướng quá sâu dày, họ bị quan niệm tu cũng chết, không tu cũng chết, chẳng tin nhân quả, tội phước, sống là tranh giành, chết là hết. Cho nên việc ác nào họ cũng dám làm, suốt đời không biết tu là gì. Giống như con ngựa chứng bất trị, hay là người bệnh nặng hết thuốc chữa, họ tự lao mình vào tam đồ ác đạo.
Quý vị tự kiểm lại xem trong bốn hạng người đó, coi mình thuộc hạng nào. Có nhiều người đợi cho đến khi bệnh sắp chết, mới chịu thức tỉnh, thỉnh quý sư đến cầu an, họ phát nguyện cầu Phật gia hộ cho con được bình an mạnh khỏe sẽ phát tâm tu. Nhưng đến khi mạnh, tu được một thời gian rồi cũng thôi.

Nhớ lại thuở đức Phật còn làm Thái tử, chỉ nhìn thấy người già, bệnh, chết có một lần là phát tâm tu liền, còn mình nhìn thấy không biết bao nhiêu lần, nhất là quý vị lớn tuổi thấy hoài, vậy mà có mấy ai chịu tu? Vì người ta chết chứ đâu phải mình chết, cho nên cứ tiếp tục gây nghiệp ác. Quý Phật tử nên nhớ con đường người xưa đến, tới mình cũng phải đi qua thôi, nếu ai tự cho rằng tôi sống hoài không chết thì khỏi cần tu, còn nếu nghĩ rằng ai rồi cũng phải chết thì ráng chịu khó tu dùm một chút. Mình lo cho sự sống bao nhiêu thì cũng phải nghĩ đến sự chết bấy nhiêu mà cố gắng tu hành.

Tu ở đây không có nghĩa là vô chùa mới gọi là tu. Tu có nghĩa là sửa đổi những thói hư tật xấu, sai quấy. Thân không sát sanh, đạo tặc, tà dâm. Khẩu không nói dối, đâm thọc, thêu dệt, rủa chửi. Ý không tham lam, sân hận tà kiến, đó gọi là tu. Chính cái sự tu, nó làm cho mình bớt khổ vì phiền não. Nhờ biết tu, cho nên mình hiền thì vợ chồng đâu có tranh cãi với nhau hoặc là ông chồng dữ, vợ hiền, chồng mắng vợ nhịn thì đâu có chửi rủa đánh lộn. Nhờ vậy gia đình được bình yên hạnh phúc.

Kế đến láng giềng, nếu họ hung dữ, chửi rủa, sỉ nhục v.v... Mình nghĩ rằng cái thân này không biết nó chết giờ nào? Hơi đâu mà hơn thua cho sanh ra phiền não, oán thù. Họ muốn chửi bao nhiêu cứ chửi, vô lỗ tai qua lỗ tai bên kia đi mất, hơi đâu mà chửi lại làm chi cho mệt, chửi riết mỏi miệng họ cũng nghỉ. Nhờ vậy mà lối xóm được bình yên. Còn nếu bị người ta chửi mình, mình kiếm một câu gắt hơn chửi lại, nó sẽ đưa đến đấu khẩu không xong thì chuyển qua đấu võ, kẻ lổ đầu người bể mặt, bầm mình, nếu lở tay đánh người ta trọng thương hoặc chết thời sẽ tốn tiền thuốc lại bị bỏ tù hay là tử hình, bỏ vợ con ở nhà không có ai lo, khổ lây cả chùm. Vậy mà ở đời họ cho đó là khôn, tự vỗ ngực xưng ta đây anh hùng, còn người hiền họ lại cho là nhu nhược, yếu hèn. Thật là mê muội! Cái chết nó đuổi gấp một bên mà chẳng chịu lo tu, tối ngày cứ lo cái chuyện không đâu.
  • "Ai chửi mắng thì ta giả điếc
    Chờ cho người hết giận, ta khuyên
    Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên
    Thì đâu có mang câu thù oán
    Việc hung dữ hãy vừa thấp thoáng
    Chữ từ bi ta diệt nó liền
    Sự oán thù đáp lại chữ hiền
    Thì thù oán tiêu tan mất hết
    ".
Quý Phật tử thử nghĩ, đã bao lần chúng ta đánh mất biết bao tình cảm đối với thân bằng quyến thuộc và nhân loại, cũng chỉ vì thiếu đức vị tha.

Nhiều bậc cha mẹ vì quá tức giận chửi mắng, đánh đập, xua đuổi con cháu chẳng chút xót thương, vô tình đưa nó vào con đường sa đọa, tội lỗi nhưng họ lại quên rằng những lỗi lầm ấy khi xưa mình đã từng vướng mắc, vậy ta nên từ bi, hỷ xả, chỉ dạy cho nó thấy được lỗi lầm sửa đổi.

Nếu thiếu đức khoan dung là tự mình chuốc lấy ưu phiền và gieo khổ cho người khác. Chính cái đó nó đánh mất tất cả tình cảm lẫn vật chất, mà người ấy có thể đem đến cho mình.

Bởi thế, từ gia đình cho đến xã hội, ta phải tha thứ, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, đồng tiến bước trên con đường đạo đức.
  • "Đạo pháp thường hay dung với hòa
    Xét người cho tột, xét thân ta
    Nếu người rõ phận vui lòng thứ
    Ta thứ được người, người thứ ta
    ".
    • Cổ Đức
Nhưng thử nghĩ, trên thế gian này có mấy ai được vậy? Quý vị đi đám tang thường thấy những bà vợ gục đầu bên quan tài ông chồng khóc than, kể lể bằng những câu rất thảm thiết. Nếu ngược lại người nằm trong hòm là bà vợ, thì ông chồng buồn bã, than tiếc bằng những lời ưu ái, bi ai thật cảm động; cho đến con cái và thân bằng quyến thuộc cũng vậy. Khi còn sống bên nhau họ chỉ đem toàn là những lời cay nghiệt, độc dịa, thô bỉ, bạo tàn, sát phạt lẫn nhau. Đợi cho đến khi họ chết đi rồi mới ăn năn hối hận, khóc kể, tán dương, ca ngợi nào có ích gì...? Thật sự mà nói những dòng nước mắt và lời nói đó đều là giả dối, vô nghĩa. Mình tự khóc kể rồi mình tự nghe, chứ đối với người đã chết thì không còn ý nghĩa gì nữa.

Trong tận cùng tâm tư của con người, ai cũng thích địu dàng, mơn trớn khi được người tán dương ca tụng. Tại sao chúng ta không đem những ân tình, lời nói tốt lành dành cho nhau trong lúc còn sống, họ ưa thích biết bao nhiêu!

Quý Phật tử nên nhớ rằng ai rồi cũng phải chết, cuối cùng cùng phải chia tay nhau. Cho nên các Thiền sư thường khuyên chúng ta hãy dán chữ "Tử" trước mắt để ý thức rằng: Mình và người chung quanh không biết chết lúc nào, trong khi còn sống chúng ta cố gắng lấy đạo đức, tận tình đối xử tốt đẹp vui vẻ với nhau, để khi họ ra đi lương tâm mình cũng không bị cắn rứt, bùi ngùi hối hận.

Trên đời có một số người quen thói ăn nói thô lỗ, sổ sàng, lại cố chấp cho đó là đúng. Thật chẳng tốt đẹp gì khi ta buông ra những lời thô tục khó nghe trước mọi người. Người lịch sự khi nói năng phải giữ lời, giữ ý, không hấp tấp vội vàng, không vừa nói vừa cười, không nóng nảy... Trước khi nói phải suy nghĩ cho chính chắn, không nên nói thẳng thắng quá làm mất lòng người. Tuyệt đối tránh cãi vả, đôi co, trách móc, hay chỉ trích người khác. Cần tránh những kiểu ăn nói kiêu ngạo, xấc láo. Lời nói ôn tồn hòa nhã, tế nhị ngọt ngào, ngay cả trong lúc tức giận mà vẫn giữ được sự bình tĩnh, không hiện ra sắc mặt giận dữ. Thường giữ dức khiêm tốn, nói lời tao nhã, đối đáp cởi mở, nói đúng nơi, dừng đúng chỗ "Lời nói ngọt lọt tới xương". Lời nói chân thật, ngọt ngào, nó có sức mạnh cảm hóa được lòng người. Như thế, chúng ta sẽ đạt được kết quả như ý.

Trái lại, hễ ai nói trái ý làm nghịch lòng một chút, liền sân si, sừng sộ, phẩn nộ, la lối om sòm, hạng người như thế đó không làm được việc gì, lại thường chuốc họa vào thân.

Trong đời sống, chúng ta đừng làm phật lòng người khác. Khi cần khen, chê phải hết sức tế nhị và kín đáo, cho dù người đó có thân thích đến mấy, bởi chẳng có ai muốn mình bị chê. Trong khi khen cần phải cân nhắc cho đúng chỗ, hợp thời, chớ tâng bốc, đề cao quá trớn trước đông người. Như thế sẽ làm cho người được khen cảm thấy ngượng ngùng và gieo mầm ganh ghét, đố kỵ với người chung quanh. Không khéo họ sẽ đánh giá cho ta là người thiếu kiến thức, nịnh bợ không dúng lúc.

Thí dụ: Trong đoàn thể có một hai người nổi bật về mọi mặt. Nếu là nhà lãnh đạo sáng suốt nên nói thế này: "Trong chúng ta phần nhiều đều chấp hành tốt, nhưng có anh A, chị B nổi bật hơn hết, nên khen thưởng để khích lệ tinh thần. Quý vị có đồng ý không?" Nói như thế cả người được khen thưởng và người không được khen thưởng đều hoan hỷ.

Trái lại, mỗi khi mở miệng ra là đề cao khen ngợi chỉ có một hai người. Như vậy là ngấm ngầm cho hội chúng là bất tài vô dụng, thì họ sẽ bất mãn ta. Dẫn đến hậu quả mất hết niềm tin và nghị lực của tập thể, chắc chắn sẽ lãnh lấy thất bại.

Còn khi chê trước tiên phải hết lòng thương yêu, tận tình giúp đỡ và khen ngợi trước, rồi khéo dẫn chứng chuyện này chuyện nọ để cho họ nhận ra khuyết điểm, sửa sai mà không làm tổn thương danh dự của người ta.

Cổ Đức thường dạy: "Mọi việc xử sự khoan hòa thì phước đức tự nhiên sâu dày, xử sự khắc khe độc ác thì phước đức tiêu mòn".

Phong cách nói năng chính là biểu hiện bên ngoài để gieo thiện cảm với người chung quanh. Muốn có phong cách nói năng hành động tốt, chúng ta cần tạo cho bản thân phong thái ung dung, tự tại, cử chỉ khoan thai, gương mặt vui vẻ, giọng nói phải thanh tao, khi bổng khi trầm, lên xuống đúng chỗ. Tránh xử dụng những câu quá tối nghĩa, khó hiểu, nói một đàng ý một nẻo, làm cho người nghe hiểu lầm, thì thật là tai hại.

Không nên nói soi mói, vạch chuyện riêng tư của người khác, tránh đề cập đến vấn đề mang tính chất tranh cãi. Trong quá trình tranh cãi, dù ta đúng hay sai đều để lại những vướng mắc khó chịu cho ta và người.

Đức Lục Tổ dạy:
  • "Hơn thì càng thêm oán
    Thua lại ngủ không yên
    Hơn thua hai đều xả
    Thời an ổn ngủ yên
    ".
Trong khi nói chuyện tránh đề cập quá nhiều đến bản thân hoặc nói mãi một vấn đề làm cho người khác nghe thờ ơ, chán nản và những chuyện gì mà người ta không muốn trả lời thì đừng cố tra hỏi. Cũng cần tập cho mình thói quen nghe người ta nói chuyện thị phi liền xả bỏ, đừng tùy tiện rêu rao chuyện người khác. Gây khó khăn cho họ, như thế họ sẽ oán ghét ta. Đó là tự chuốc lấy phiền não, chẳng có lợi lộc gì. Người xưa dạy: "Sẩy chân còn hơn sẩy miệng". Có người học thức rất cao, nhưng khi nói chuyện ra sao mà khó nghe vô cùng. Ngược lại, có người trình độ chẳng là bao, nhưng khi họ nói ra một điều gì thì làm cho người ta nghe một cách chăm chú, say mê và có tính thuyết phục rất cao, tạo niềm tin cho người khác. Muốn được vậy phải giữ gìn giới cấm, chịu khó nghiên cứu giáo lý, rèn luyện nhân cách cho thanh nhã, thận trọng từ việc ăn mặc, đi dứng, nằm ngồi, nói cười cho hợp lý, lúc nào cũng tỉnh giác kiểm soát thân, khẩu, ý, đừng để tâm buông lung, phóng túng, thường giữ oai nghi nghiêm chỉnh, thì việc nói làm đó mới được nhiều người kính mến. Nhờ thế mà thành công tốt đẹp.

Kiếp người ảo ảnh phù du. Vậy mà có mấy ai thức tỉnh lo tu hành, cứ mãi nói chuyện thị phi, nhơn ngã, tranh giành, hơn thua từng tiếng nói, chẳng nhịn một câu, cho nên cứ mãi lẩn quẩn trong vòng phiền não, sanh, lão, bênh, tử chịu bao kiếp nạn.
  • "Lời nói là vốn oan khiên
    Cũng vì mở miệng lụy phiền đến thân
    Lời ăn, tiếng nói ân cần
    Suy xét chính đáng muôn phần khỏi lo
    Một lời mà lỗi quá to
    Tan nhà, mất nước cũng do miệng mình
    ".

    "Bớt nói một câu chuyện
    Bớt sanh một lỗi quấy
    Thêm một câu niệm Phật
    Thêm nhiều duyên giải thoát
    ".
Muốn cho gia đình hạnh phúc, xa hội yên vui, Cổ Đức khuyên chúng ta phải tu hạnh nhẫn:
  • "Chữ thứ nhứt nhẫn năng xử thế
    Là người hiền khó kiếm trong đời
    Chữ nhẫn giới trì tâm trong trẻo
    Khuyên dương trần giữ phận làm đầu
    Nhẫn hương lân cùng khắp đâu đâu
    Trên cùng dưới điều hòa ý hỷ
    Nhẫn phụ mẫu gọi trang hiền sĩ
    Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau
    Nhịn xóm làng cô bác mới cao
    Nhẫn tâm nọ thường thường an lạc
    Nhịn tất cả những người tuổi tác
    Giữ tánh lành yên tịnh lâu dài
    Quanh năm mới bảo toàn thân thể
    ".
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 09/09/14 05:13 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Tối sáng như tên bắn, ngày tháng tợ thoi đưa, không ai làm chủ được sanh, già, bệnh, chết.

Chính vì thể Tổ Qui Sơn mới dạy rằng:
  • "Ngày nay lại đã qua rồi
    Mạng căn, huyết mạch lần hồi tiêu hao
    Dường như cá cạn ở ao
    Khổ thêm thì có chút nào vui đâu?
    Cần tu tợ lửa đốt đầu
    Đừng cho sái buổi như chầu Đế vương
    Tấm thân mỏng mảnh vô thường
    Sớm còn tối mất tìm phương cứu mình
    ".
Qua bài kệ trên, Tổ chỉ cho mình thấy cái thân này là nơi chứa nhóm các thứ khổ. Giống như con cá ở trong ao không có nước, chẳng biết chết giờ nào, phải ráng mà lo tu để mình tự cứu lấy mình.

Đức Phật dạy: "Được thân người rất là khó, gặp Phật pháp lại càng khó hơn". Hôm nay mình có duyên lành hội ngộ với Tam Bảo mà không lo tu là uổng lắm, để rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hay tà ma ngoại đạo, biết bao giờ mới có thân người gặp được Phật pháp để tu.
  • "Khó thay, được làm người
    Khó thay, được sống thọ
    Khó thay, Phật ra đời
    Khó thay, được nghe pháp
    ".
    • Kinh Pháp Cú
Trong kinh, đức Phật đưa ra hình ảnh con rùa mù ở biển cả, một trăm năm mới nổi lên một lần gặp được bộng cây trôi, đó là một điều thiên nan vạn nan. Phật dạy được thân người cũng khó như thế. Ngài nói: "Tuy thân này khó được, nhưng khi được rồi lại bị vô thường hủy diệt, chớ có tham đắm nó mà gây ra tội lỗi".
  • "Người ơi sớm thoát khỏi Ta Bà
    Trẻ tuổi rồi đây cũng đến già
    Địa ngục không đàng sao lại tới
    Thiên đường có cửa chẳng hề qua.
    Quanh năm bận bịu đàn con dại
    Sớm tối say mê đám ruộng nhà
    Chẳng biết phù sanh đời tạm giả
    Tầm về Cực Lạc khỏe lòng ta
    ".
Phật đưa ra cái lý chơn thường, chơn ngã để cho chúng ta tu tập, nếu không mình sẽ rơi vào trạng thái bi quan, thoái hóa. Muốn biết chơn thường, chơn ngã là gì? Chúng ta hãy cùng nhau suy gẫm qua mẫu chuyện sau đây:

Chuyện kể rằng: "Một thuở đức Phật ở nước Xá Vệ, an trú tại Kỳ Viện Tịnh Xá. Một hôm vua Ba Tư Nặc đến yết kiến đức Phật, thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn, gần đây thân mẫu con mất, cho nên con không rảnh đến viếng Phật nghe pháp, mong đức Thế Tôn hoan hỷ cho".

Đức Phật nhìn thân hình tiều tụy, gương mặc u sầu của vua Ba Tư Nặc liền dạy: "Nầy Đại vương, trên đời này có sanh ắt có tử, đó là định luật xưa nay, có gì mà Đại vương phải buồn rầu đến thế?"

Nhơn đó Phật nói bài kệ:
  • "Tuổi trẻ thân cường tráng
    Đến già sắc biến suy
    Bệnh hoạn rồi phải chết
    Xum họp để chia ly
    Đâu có theo ý mình
    Mạng sống thật giả tạm
    Vạn vật đều vô thường
    Thời gian đã qua rồi
    Không bao giờ trở lại
    Hãy lấy đó mà suy
    Tinh tấn quyết hành đạo
    Thẳng tiến đến Niết Bàn
    Mới thoát khỏi sanh tử
    Dứt sạch hết sầu khổ
    ".
Đại vương chớ nên dùng tâm phàm mắt thịt, nhìn thấy thân mẫu mình mất rồi sanh tâm âu sầu, mà Đại vương hãy nhìn vạn vật bằng huệ nhãn để thấy rõ các pháp do duyên sanh, mà cái gì do duyên sanh đều là vô ngã không thật. Đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, vì sắc tức thị không - không tức thị sắc, nhẫn đến thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế. Đó là định luật nhân duyên vô thường giả hợp, có gì đâu mà Đại vương phải lo âu, sầu muộn để tự mình chuốc lấy phiền não, nào có lợi ích gì đâu? Đại vương nên sống với cái tâm chơn thường, chơn ngã, tự tại vô ngại, bất sanh, bất diệt. Đó là pháp thân, Niết Bàn diệu tâm vô tướng của Như Lai. Vô tướng ở đây có nghĩa là vô tướng sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Vô tướng nam nữ,vô tướng sinh trụ và hoại. Pháp thân của Phật không có sắc, không nhiễm trước các pháp, bất sanh bất diệt, thường lạc ngã tịnh không thể dung ngôn ngữ thí dụ hay suy tưởng được. Bất khả tư nghị, tự giác, tự tác, tự chứng giống như ăn uống tự mình biết "ngon, dở, nóng lạnh", người ngoài không thể biết được.

Vua Ba Tư Nặc nghe Phật thuyết pháp, tâm thần tỏ ngộ, dứt hết phiền não, cúi đầu đảnh lễ Phật, y giáo phụng hành.

Chuyện trên, cho chúng ta thấy xự đau khổ của chúng ta, không phải do tính chất vô thường của thân thể, mà chính là do sự chấp thủ tham ái là nguyên nhân gây ra buồn phiền, khổ não, sanh, lão, bệnh, tử, luyến ái người và của cải, nó có thể làm cho ta điên loạn.

Thuở Phật còn tại thế, gia đình của bà Pa Ta Ca Ha chỉ trong một thời gian ngắn mà cha mẹ, chồng con đều chết hết. Bà quá đau đớn trước thảm cảnh người thân và của cải đều mất tất cả, khủng hoảng tinh thần đến nỗi mất trí, thân thể lõa lồ bà chạy như điên trên thành phố, cho đến khi gặp đức Phật. Phật dạy: "Này Pa Ta Ca Ha, cái chết là một hiện tượng tự nhiên, rồi đây ta cũng chết, bà cũng chết, tất cả mọi người không ai tránh khỏi, các pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã, ân ái như giấc mộng, gặp gỡ sẽ chia ly.

Trong những kiếp trước bà đã từng đau khổ, khóc than vì cái chết của người thân, nước mắt kia còn nhiều hơn biển cả". Đức Phật thấy bà nhận chân được sự chết, ngài giảng giải về Tứ Diệu Đế. Đây là khổ, nguyên nhân của sự khổ, đây là diệt khổ và con đường dẫn đến chấm dứt khổ. Nhân đây đức Phật nói bài kệ:
  • "Người đắm chìm trong ái
    Vọng tưởng miên man hoài
    Già chết mãi vần xoay
    Do ái sâu không đáy.
    Người trí thấy rõ ái
    Ngục kiên cố khó ra
    Nên với dục tránh xa
    Dứt ái, được an ổn
    ".
Sau khi chấp dứt pháp thoại, bà Pa Ta Ca Ha giác ngộ, biết rõ mạng sống vô thường, chồng con, của cải như khách, bà thành tâm đảnh lễ, tín thọ phụng hành lời Phật dạy.

Những người quá lo âu, sầu thảm tuyệt vọng vì bệnh tật, người thân mất, bị giựt tiền của, làm ăn phá sản, tình phụ, thần kinh thác loạn. Các bác sĩ tâm thần khuyên: "Phải cho người bệnh hoạt động ở ngoài trời, như đánh banh, chơi cầu, chụp hình, làm vườn, tập thể dục hoặc làm một chút công việc gì đó thì bệnh tình sẽ giảm đi, làm việc là thuốc an thần rất hữu hiệu, giúp bệnh nhân được an tĩnh, quên bớt những cảnh đau buồn.

Những biện pháp trên chỉ mang tính tạm thời, muốn dứt hết những nỗi thống khổ, chúng ta phải học hạnh của các thiền sư, khi gặp chướng duyên ách nạn, quý ngài ngồi thiền định, nhiếp tâm vào hơi thở, quán chiếu lý vô thường, nhân quả, chấp nhận nghịch cảnh nên nội tâm được an lạc.

Điển hình như chuyện ngài An Thế Cao là một cao tăng đắc đạo biết rõ nghiệp duyên của mình. Một hôm, ngài đi đến Quảng Châu gặp thời giặc cướp hoành hành, khắp nơi loạn lạc. Trên đường ngài gặp một thiếu niên, hắn rút dao ra nói:

- Ta tìm gặp ngươi rồi.

Ngài mỉm cười trả lời:

- Ta đời trước mắc nợ mạng của ông. Vì vậy, khi găp ta, ông liền nổi sân muốn giết. Để trả món nợ đó nên ta từ xa đến đây đền mạng.

Nói xong ngài thản nhiên không chút sợ hãi, dưa cổ cho chém. Lúc ấy người xem đứng chật cả hai bên đường.

Chuyện trên cho chúng ta thấy, sở dĩ ngài An Thế Cao hoan hỷ cho người thiếu niên giết, là vì ngài hiểu rõ luật nhân quả và xác thân ngũ uẩn giả hợp không thật, nên ngài ung dung tự tại trước cái chết.

Nói đến quả báo điên cuồng. Trong Kinh Địa Tạng nói: "Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn, thời ngài dạy rõ quả báo điên cuồng, mất mạng. Nếu gặp kẻ đốt phá núi rừng, thời ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.

Khế Kinh dạy: "Nếu người nào có ác tâm cướp giựt tài sản, hay lường gạt, phụ bạc tình cảm và dùng bùa mê chú hoặc, não hại chúng sanh, khổ sở điêu đứng, đảo điên, loạn tâm, cuồng trí. Người đó sau khi thân hoại mạng chung đọa vào địa ngục. Ra khỏi địa ngục rơi vào ngạ quỷ, súc sanh, khi mãn kiếp sanh lên nhân gian khổ não triền miên, điên cuồng đền tội:
  • "Mưu sâu kế độc: Câm khùng đền tội
    Dùng tà ma hại người: Đau oan, trái bệnh
    Mắng gió chửi mưa: Ngây cuồng đền tội
    Được chôn chê khờ: Lảng tâm mất trí
    Truyền khôn bất chánh: Trả quả loạn tâm
    Dùng lửa hại người: Loạn tâm loạn trí
    ".
    • Bồ Đề Lão Tổ.
Muốn tránh khỏi quả báo khổ đau thì những điều gì mình không muốn chớ ban cho người khác. Hằng nghĩ rằng, không biết sống chết lúc nào, cần phải tinh tấn tu hành và thường ban rải lòng từ bi đến với tất cả chúng sinh. Được như thế thì chúng ta sẽ có một cuộc sống hạnh phúc an lạc ở trong hiện tại và tương lai.

Tóm lại, mắt nhìn không nhiễm sắc, tai không nhiễm tiếng, mũi không nhiễm hương, lưỡi không nhiễm vị, thân chạm xúc mà không sanh tâm vui buồn tham đắm, sân hận, si mê. Nếu mình không tham đắm trụ chấp trước tướng bất cứ việc gì, ngay tại đó là chơn thường, chơn ngã, Niết bàn, bất sanh, bất diệt. Nếu như mình còn trụ chấp là còn tướng, hễ trong tướng là còn trong vòng sanh diệt.
  • "Là Phật tử tâm luôn giác biết
    Cõi thế gian quả thiệt vô thường
    Đổi dời sanh tử tang thương
    Cõi nước tuy lớn cũng dường mong manh!
    Thân tứ đại sanh thành tử hoại
    Già bệnh đeo khổ ải, quả không
    Hòa hợp năm ấm lửa vòng
    Chỉ là ảo ảnh, ngã không thể tìm
    Thế mới biết trần gian hư huyễn
    Diệt lại sinh biến chuyển vô thường
    Chúng sanh mê đắm chấp nương
    Vô ngã chấp ngã vào đường khổ đau
    Tâm là cội nguồn bao nghiệp ác
    Thân nghe theo tạo các tội khiên
    Xuống lên sanh tử triền miên
    Tội kia đầy dẫy như miền rừng hoang
    Người con Phật phải toan quán sát
    Đạo lý này bao quát đường tu
    Đó là thiền quán công phu
    Dứt mê, chuyển nghiệp khỏi tù tử sanh
    ".
    • Thơ dịch
Xét lại thân của chúng ta chỉ là vay mượn từ các duyên bên ngoài để sống còn. Khi duyên hết thì tan rã, vì một ngày vô thường đến mới biết minh trong mơ, vạn vật đều vô thường. Duy chỉ còn lại nghiệp lành hay dữ nó theo mình mà thôi, sở dĩ có nghiệp đều do tâm tạo.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

III. TÂM VÔ THƯỜNG
Nói đến cái tâm nó sanh diệt vô thường còn hơn cái thân rất nhiều. Nó sanh diệt rất nhanh từng niệm sát na. Hễ đối cảnh là sanh tâm vui buồn, thương ghét giận hờn. Lúc thì hồi tưởng về quá khứ để nuối tiếc. Khi thì mơ mộng đến tương lai, bồn chồn lo lắng trong hiện tại không có lúc nào được yên, nó thay đổi không ngừng, nhấp nhô như sóng biển, nên đức Phật gọi đó là tâm viên ý mã, giống như khỉ chuyền cành, ngựa chạy rong. Phàm phu lầm chấp cho tâm mình là thật mà gây ra không biết bao nhiêu lỗi lầm, nào là độc đoán cố chấp, bảo thủ, tự hào, khoe khoang hay hăm dọa nói rằng "Tánh tôi hay nóng lắm, yêu cầu đừng có đụng chạm đến tôi". Cái tánh sân si, hung hăng xấu ác như vậy mà không biết cải sửa, còn đi khoe khoang thật là mê muội không sao nói hết? Nếu tự cho cái tâm mình là thật, đức Phật nói: "Chẳng khác nào như nhận giặc làm con, lấy khách trần phiền não làm chủ để cho nó dẫn dắt mình làm người khách phong trần rày đây mai đó, đọa lạc lên xuống trong ba cõi, sáu đường, chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ".

Tôi xin trích dẫn mẫu chuyện chứng minh tâm vô thường biến đổi:

Thuở Phật còn tại thế, có một chú tiểu tên là Tăng Hộ. Cha mẹ đều qua đời, họ hàng thân tộc không còn ai, chú chỉ còn một người cậu ruột, khi cậu xuất gia, chú đi tu theo cậu được xếp và hàng Sa Di. Một hôm chú được thí chủ cũng dường hai xấp vải, liền đem cúng lại cho Thầy, nhưng thầy không nhận, vì đã có đủ tam y. Chú buồn quá nghĩ chắc thầy không thương mình nữa.

Chiều hôm đó, chú cầm quạt hầu thầy nhưng trong tâm cứ nghĩ miên man không biết sẽ về đâu? Thầy không thương, họ hàng không có, chú chợt nghĩ: "À! Ta đem bán hai xấp vải lấy tiền mua một con dê đực, một con dê cái. Vài năm sẽ có một đàn dê, bán dê mua bò, bán bò mua trâu, bán trâu tạo ruộng vườn. Khi đó mình đã lớn, cưới vợ sinh đứa con trai khái khỉnh, sẽ dẫn vợ con về thăm thầy quy y. Trên đường đi, vợ chú vấp phải rễ cây, thằng bé rơi xuống đất. Chú nổi giận quơ cành cây gõ lên đầu vợ "đồ hư". Vừa lúc đó thầy chú mở mắt ra nói: ""Người gõ lên đầu vợ không trúng, lại trúng cái đầu trọc của ta". Tăng Hộ bừng tỉnh giấc mơ, hốt hoảng bỏ chạy.

Các bạn thấy chú chạy như ma đuổi, liền chạy theo bắt lại, dẫn chú đến đức Phật:

Ngài liền an ủi: "Này chú, cái tâm phàm phu lén lút đi rất xa, vô hình, vô dạng... Chú nên khéo phòng hộ tâm mình, như gã mục đồng chăn trâu vậy".

Được nghe lời dạy của Phật, Tăng Hộ ở lại tu việc tu hành đến ngày chứng quả A la hán.

Tâm vô thường luôn bị xáo trộn, nó len lỏi vào cuộc sống của từng người, cho dù xuất gia hay tại gia. Đối với người xuất gia, phải biết kềm chế tâm, thực hành thiền định, quay lại chính mình trong từng niệm.

Đối với người tại gia cũng phải hiểu rằng vô thường không từ bỏ một ai, cho nên trong đời sống hằng nghĩ dến điều thiện, hướng về đạo đức, làm lành lánh dữ. Có như thế mới mong thoát khỏi cảnh phiền não khổ đau.

Trong kinh Pháp Cú, Phật thường dạy các hàng đệ tử luôn đề cao cảnh giác phòng hộ tâm mình:
  • "Người trí canh giữ tâm
    Như phòng hộ thành quách
    Tự tâm mình cũng phải
    Nên phòng hộ như thế
    Dầu chỉ một phút giây
    Cũng chớ nên buông lung
    Nếu giây phút buông lung
    Tức thời liền sa đọa
    ".
Phòng hộ tâm như thế nào? Chúng ta xem qua mẫu chuyện sau đây:

Thuở Phật còn sanh tiền có một nhà sư Potthila là Giáo thọ sư lão thông Tam tạng kinh điển, có điều chưa chứng quả, mỗi lần sư viếng Phật, Thế Tôn thường gọi ngài là ông Sư Rỗng, biết đức Từ Phụ nói như vậy là để cho mình cố gắng tu.

Cho đến một hôm lòng buồn tột độ. Tôn giả bỏ hội chúng đi vào rừng, đi mãi cuối cùng găp ba mươi vị A la hán vốn là học trò cũ của Sư. Tôn giả Potthila đến đảnh lễ vị Thủ tòa xin ngài hoan hỷ chỉ cho cách tu.

Vị Thủ tòa mỉm cười nói làm sao tôi dám làm điều đó, khi trước kia ngài là vị Giáo thọ.

Tôn giả bị đẩy xuống vị Nhị tòa cũng bị từ chối... cuối cùng Tôn giả đến trước vị A la hán nhỏ tuổi nhất mới lên bảy, van nài một cách khẩn thiết.

- Ồ! Làm sao tôi dám làm điều đó, khi tuổi tác và sở học của tôi kém ngài rất xa... e rằng ngài có tin nổi hay không?

- Bạch Đại đức! Lòng con tha thiết cầu mong ngài từ bi chỉ giáo.

A la hán trẻ tuổi ôn tồn bảo:

- Này Tôn giả lúc còn tại gia ngài có chơi đá dế không?

- Thưa biết ạ!

- Ồ! Tốt lắm. Giả sử có một cái hộp vuông chứa đầy dế, có sáu cửa, cửa nào cũng hé ra hết, thì các chú dế sẽ thò râu hoặc chân tay ra ngoài các ngõ ấy. Có phải thế không nào?

- Thưa vâng.

- Nếu cửa nào cũng mở rộng thì các chú dế sẽ chui ra ngoài hết, có phải vậy không?

- Thưa đúng như vậy.

- Bây giờ muốn quan sát các chú dế ấy cho kỹ, ta phải đóng kín năm cửa, rồi tập trung lại nhìn cho thật rõ ràng chăm chú vào các sinh hoạt của bầy dế, ta sẽ thấy rõ dế nào là dế than, dế lửa, dế cơm, chúng đang làm gì một cách rõ ràng.

Này Tôn giả, các cửa của cái hộp dế chỉ cho sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của ta. Những vọng tưởng lao xao và rộn ràng chẳng khác nào bầy dế kia. Muốn điều phục chúng không cách nào tốt hơn là ngồi im lặng, giảm bớt các hoạt động của ý thức... bình thản nhìn một cách rõ ràng, chăm chú, quan sát những vọng niệm của mình, không xen vào những ước muốn lấy bỏ, loại trừ...

- Bạch Đại đức! Con đã hiểu rồi...

Tôn giả Potthila từ giã ba mươi vị A la hán, tìm một nơi yên tĩnh tọa thiền... Để khuyến khích Sư, đức Thế Tôn gởi đến một bài kệ:
  • "Tu thiền trí huệ sanh
    Bỏ thiền trí huệ diệt
    Biết rõ hai lẽ này
    Thế nào là đắc thất
    Hãy tự mình nỗ lực
    Khiến trí huệ tăng trưởng
    ".
Chẳng bao lâu tôn giả Potthila đắc quả A la hán.

Nhiếp phục lục căn, hiền nhân có kệ:

  • Sắc chi cũng không chinh được mắt
    Mắt tự do ngắm vật trong ngoài
    Đẹp không vọng niệm mê say
    Xấu không khởi ý chê bai gớm nhờm.
Tiếng chi cũng chẳng làm tai mến
Tai tự do nghe tiếng dở hay
Dở không buồn ghét nơi tai
Hay không buộc phải chuyển lay trong lòng.

  • Mùi chi cũng chẳng lung được mũi
    Mũi tự do để ngửi các mùi
    Thơm không làm nảy ý vui
    Hôi không thể khiến cho khơi lòng buồn.
Vị chi cũng chẳng sờn được lưỡi
Lưỡi tự do nếm thử các vì
Ngon không làm mến ưa chi
Dở không sanh khởi ý gì chán chê.

  • Cọ đụng chẳng làm mê thân xác
    Thân tự do đụng các lạnh nồng
    Lanh nồng không nhiễm được lòng
    Cứng mềm cũng chẳng trói tròng nơi tâm.
Vật chi cũng không làm động ý
Ý tự do xử trí vật danh
Giàu, nghèo, thương, ghét chẳng sanh
Có không cũng chẳng khiến tình chấp nê.

  • Cảnh không thể làm mê tâm trí
    Tâm tự do tự trị lấy mình
    Trong sanh tử vượt tử sanh
    Tuy mang xác tục mà tình thần tiên.
Đoạn này rất diệu huyền vô tận
Người hạ ngươn nếu đặng dịp nghe
Sẽ là tỉnh được giấc mê
Bỏ điều hung ác theo bề thiện lương
.

Kinh Hoa Nghiêm đức Phật dạy: "Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tính trí huệ của Như Lai".

Muốn phát huy những đức tính này, Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy: "Chỉ cần quán tâm là đủ".

Trong khi quán tâm, hành giả phải tỉnh táo để lòng rỗng rang, không cho vướng mắc những ý niệm, tính toán ta và của ta. Chính cái tâm không này nó phát sanh ra trí huệ.

Khi đó tình thương yêu của ta ban rải khắp muôn loài vạn vật, nhờ có cái tâm không phân biệt ấy chúng ta thích ứng dễ dàng với ngoại cảnh bên ngoài, đương đầu với Bát phong một cách tự tại: vẫn thấy, nghe, hiểu, biết rõ ràng nhưng không còn dấu vết của tình chấp.

Bát phong: là tám ngọn gió lay động lòng người làm thương tổn thiện căn trong khi tu hành.
  1. Lợi: Là tiền tài, lợi dưỡng...
  2. Suy: Là nỗi đau khổ khi tiền tài, lợi dưỡng bị hao tổn...
  3. Hủy: Bị người nói xấu, hủy mắng.
  4. Dự: Được người đời xưng tán, khen ngợi.
  5. Xưng: Được tôn xưng, kính trọng.
  6. Cơ: Bị chê bai, khinh khi.
  7. Khổ: Đau khổ, hoạn nạn đến.
  8. Lạc: Vui sướng khi được điều như ý.
Chúng sanh đứng trước tám ngọn gió trên, bị nó thổi mà tâm không lay động thì cuộc sống được an vui, tu hành mau thành chánh quả.

Bằng ngược lại bị nó thổi liền sa ngã, vùi dập đau thương thì thật là nhu nhược thiếu dõng lực, chẳng phải là người chơn tu phải bị chìm đắm mãi trong dòng sanh tử.

Chúng ta thử tìm hiểu cuộc gặp gỡ giữa Tổ Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Khả.

Huệ Khả thưa:

- Bạch Tổ Sư! Tâm con bất an xin ngài dạy con phương pháp an tâm.

Tổ Sư bảo:

- Đưa tâm đây ta xem.

Huệ Khả lúng túng nói:

- Con tìm mãi không ra.

Tổ đáp:

- Vậy là ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.

Sở dĩ Huệ Khả tìm tâm không ra vì tâm không có hình tướng, chẳng qua là chấp cho nó là có, rồi chạy đuổi theo trần cảnh làm cho tâm ngài bất an.

Khi xưa Tổ Huệ Năng nghe được bài kệ: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm". Ngài liền giác ngộ

Vô trụ ở đây là xa lìa bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ giả.

Trong Kinh Kim Cang Phật nói bốn tướng:
  • 1. Ngã tướng: Tướng của mình.
    2. Nhơn tướng: Tướng của người khác.
    3. Chúng sanh tướng: Là chỉ cho tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình.
    4. Thọ giả tướng: Chấp thọ mạng dài hoặc ngắn.
Phàm phu lầm chấp tướng trạng hư giả cho là thật nên mãi đắm chìm trong bể khổ trầm luân.

Kinh Đại Bát Nhã dạy:"Bồ tát trong khi hành đạo quán sát thấy rõ ngũ uẩn đều không thật nên các ngài tự tại vượt qua mọi khổ ách".

Ngũ uẩn gồm có:
  • 1. Sắc uẩn: Là chỉ chung mọi thứ vật chất như là:
    • - Ngũ căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
      - Ngũ trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
      - Tứ đại: Đất, nước, gió, lửa.
    2. Thọ uẩn: Là những cảm thọ vui sướng, buồn khổ, trơn nhám, cứng mềm, và không khổ, không lạc. Đó là những cảm thọ khi tâm đối với cảnh.

    3. Tưởng uẩn: Đối cảnh nhận ra sự đen trắng, nhỏ to, dài ngắn... Đây là nhóm yếu tố tinh thần làm chức năng tưởng tượng hình dung ngoại cảnh.

    4. Hành uẩn: Đối cảnh đem lòng ham muốn, hoặc thương ghét, vui buồn... của tâm đối với cảnh, do nhân duyên tạo tác các pháp hữu vi trôi chảy trong ba đời. Nói rộng ra hành uẩn thu nhiếp rất nhiều pháp trong đó gồm cả sắc, thọ, tưởng và thức.

    5. Thức uẩn: Có công năng hiểu biết và phân biệt sự vật, khi tâm đối với cảnh.
Như vậy chúng ta đủ hiểu sắc thuộc về thân và vật chất, còn thọ, tưởng, hành, thức chỉ cho tâm.

Đức Phật dạy vua Bình Sa:
  • "Sắc giống như cây chuối không bền. Thọ như điện chớp có rồi mất. Tưởng hư ảo như hơi nước. Hành tợ bọt nước không thật. Thức chỉ là trò huyễn thuật giả tạo ra người và vật, chúng không có thực thể, tùy theo cảnh mà thức thức tâm nảy sinh ra mọi sự phân biệt, các pháp chỉ là trò luống dối".
Như có một vị thiền sinh, trong lúc tọa thiền thường thấy xuất hiện trước mắt mình một con nhện, làm cho tâm thần bất an. Một hôm anh định mang theo con dao chờ khi nó xuất hiện, đâm chết cho rồi, nhưng may mắn là trước khi hành động gặp được một Thiền sư, anh liền đem chuyện ấy thuật lại cho thiền sư nghe. Nghe xong ngài không nói gì, chỉ bảo khi nào nó xuất hiện lấy phấn đánh dấu ngay chỗ đó thì ngươi sẽ biết con nhện xuất phát từ đâu. Thiền sinh vâng lời làm theo khi phát hiện ra mới thấy dấu phấn trước ngực mình nên hốt hoảng, anh liền đến vị thiền sư nói: "Nếu không nhờ ngài chỉ dạy thì con tự đâm mình chết rồi".

Nhơn đây thiền sư nói: "Đó là những vọng thức bên trong của ngươi nó hiện ra, chớ chẳng phải ở ngoài. Nên nhớ nhiếp tâm chánh niệm tỉnh giác soi lại bên trong, đừng để ngoại cảnh chi phối, mới mong dứt hết vọng tưởng huyễn hóa". Sau đó thiền sinh nghe lời thực hành không bao lâu, con nhện kia không diệt mà tự mất.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Cũng như có vị thiền sư tên Ya, trong lúc ngồi thiền thường tự nhắc nhở tâm mình khi thấy tham sân, tà kiến, cấu uế nổi lên. Ngài liền nói: "Ông chủ ơi! Coi chừng bị giặc nó lừa đó". Nói xong ngài tự dạ.

Nhờ hành trì nghiêm mật như thế nên ngài mau chứng đắc thiền định.

Còn chúng ta bị vô minh điên đảo lầm chấp, cho cái thân này là của tôi, của cải và những suy nghĩ, phân biệt, ta, người, thương ghét, buồn giận... những ý niệm thiện ác đua nhau trình diễn, nên thường bị tẩu hỏa nhập ma. Vì thế gây tạo nhiều nghiệp chướng...

Chính vì vậy, trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
  • "Trong các pháp do tâm làm chủ
    Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên
    Nếu người làm, nói bằng tâm chẳng hiền
    Khổ đau theo mãi triền miên
    Như bánh xe ngựa theo liền với chân.

    Trong các pháp do tâm làm chủ
    Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên
    Nếu người làm nói bằng tâm hiền minh
    Hạnh phúc sẽ đến bên mình
    Như là cái bóng với hình không phai
    ".
Hay là:
  • "Nhất thiết duy tâm tạo
    Vạn pháp duy tâm biến
    ".
Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, có một đạo nhơn ở gốc cây bên sông học đạo trong khoảng mười hai năm ròng rã tu tập mà chẳng trừ được lòng tham dục: tâm ý thường chạy tán loạn, cứ nhớ năm món dục, liền suy nghĩ muốn được mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân thích mịn màng và ý duyên các pháp trần. Hễ thân động là ý chạy, không có chút yên nghỉ.

Khi ấy, đức Phật quán biết đạo nhơn kia đã đến lúc độ được, nên ngài liền đi tới nơi cũng với ông ta ngủ lại một đêm. Trong giây lát có con rùa từ dưới sông bò lên, lát sau lại có thêm con chó nước đói đang đi kiếm ăn, gặp rùa, chó nước muốn ăn thịt. Rùa liền thụt đầu đuôi và bốn chân dấu kín trong mai, chó nước không thể hại được. Chó bỏ đi xa xa, rùa ta ló đầu, chân ra thong thả bò đi. Thế là rùa được thoát nạn.

Khi ấy, đạo nhơn thấy vậy mới hỏi Phật rằng:

- Có phải con rùa nhờ có mai hộ mạng nên chó nước chẳng ăn được không?

Phật đáp:

- Phải.

Ngài nói tiếp:

- Ta nghĩ người đời chẳng bằng con rùa này. Họ chẳng biết vô thường, buông lung sáu tình nên bị ngoại ma xâm nhập não hại. Đến khi thân hoại mạng chung, thần thức xa lìa, sanh tử không ngừng, trôi lăn lục đạo, khổ não triền miên: tất cả đều do tâm ý gây ra. Cho nên phải tự cố gắng siêng năng tu hành cầu an vui diệt độ. Nhơn đó, Phật nói kệ:
  • "Dấu căn như rùa nọ
    Phòng ý như giữ thành
    Chiến đấu với ma dữ
    Không lo sợ bại trận
    ".
Đạo nhơn nghe xong, tham tâm dứt sạch, vọng tưởng chẳng còn, liền đắc quả A la hán. (Kinh Pháp Cú Thí Dụ)

Phá Tướng Luận có giải: "Sáu nẽo luân hồi nghiệp báo trong ba cõi đều do tâm sanh ra, chính cái tâm của ta. Nó là chủ nhân sáng tạo cho mình một thiên đường hạnh phúc hay địa ngục của khổ đau". Bởi vì: "Địa ngục cũng tại tâm làm quấy, về thiên đường cũng tâm ấy tạo ra, cái tâm là quỷ hay ma, Tiên hay Phật cũng là tại nó".
  • "Ma ma, Phật Phật cũng do ta
    Ma Phật khác nhau chỗ chánh tà
    Giác Phật, mê là ma đó vậy
    Chơn như là Phật, vọng là ma
    ".
Thật vậy, nếu tâm tham, sâm quỷ ma nổi lên mà mình không ngăn chận được, sanh tâm trộm cắp, đánh đập, giết hại người ta. Ngay lúc đó mình bị cảnh tù tội tức khắc, tới chừng đó mới ăn năn thì đã quá muộn, do đó trong kinh đức Phật dạy:
  • "Nơi nào có phòng họ tỉnh giác thì nơi đó an lạc, nơi nào không phòng hộ tỉnh giác là nơi đó khổ đau".
Thí dụ: Trong gia đình vợ chồng, anh em, con cháu đang nói chuyện vui vẻ, không khéo phòng hộ, nó lạc qua đề tài đấu tranh, phiền não hồi nào mình không hay. Đưa đến tranh cãi, chửi rủa, mắng nhiếc, đánh đập lẫn nhau làm cho gia đình đổ vỡ, ly tán, tới khi tỉnh ngộ thì không còn kịp nữa. Cho nên đức Phật dạy chúng ta lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác, nếu đang nói chuyện mà không hài hòa, có thể xảy ra xung đột thì mình phải dừng lại ngay, đừng cho nó phát sanh thì làm gì có phiền não, khổ đau. Nếu như ai không nghe lời Phật dạy "Hiện tại khổ, kiếp sau bị quả báo hồ đồ, hỗn ẩu, câm ngọng, líu lo khổ sở".

Con người ở trong cảnh ái dục, thường bị tham, sân, si, ganh ghét, đố kỵ... Chuyện nhỏ xé to, tranh giành bảo thủ, từ trong gia đình anh em, chồng vợ, thân bằng quyến thuộc có khi vì một lý do không đáng sanh ra bất hòa với nhau cũng đủ khó chịu rồi, cố lánh mặt nhau, định tuyệt giao hẳn, nhưng ngặt vì còn sống chung một nhà quyết không nói chuyện, nhiều khi nín không được phải nói ra với sự ngại ngùng, giao thiệp lấy lệ thật là khổ! Tình cốt nhục, quyến thuộc mà còn hờn ghét lẫn nhau! Huống chi người dưng nước lã khác dân tộc, giống nòi, một khi thù ghét rồi, tìm đủ mọi cách giết hại lẫn nhau, gây thành oán lớn hễ gặp nhau mắt tợ kim châm, sách súng, ắm gậy, cầm dao đâm chém, đánh đập, bắn giết lẫn nhau, cuối cùng đôi bên đều tổn hại.

Tình cảnh ở thế gian thật là vô thường cho dù tình thương của cha mẹ đối với con cái, vợ đối với chồng, anh em, bạn bè, quê hương đất nước... không có cái gì chắc chắn bền bỉ. Tình yêu hóa ra thù hận, trung thành rồi phản bội, thương nhau rồi lại ghét nhau. Những chuyện đó thường xảy ra là do tâm quá ích kỷ hay cố chấp những chuyện vụn vặt, người nào có tánh nhỏ hẹp như thế chẳng những tự chuốt lấy phiền não vào tâm mà còn mang buồn phiền khổ đau đến người khác. Những chuyện nhỏ nhặt trong hôn nhân và đời sống làm cho ta gần hóa điên và có thể sinh ra năm chục phần trăm bệnh đau thần kinh, đau tim ở thế gian này.

Ông Tòa ở Chicago, một người đã ráng điều giải trên bốn chục ngàn vụ ly hôn tuyên bố: "Phần nhiều những cặp vợ chồng xin ly dị đều do chuyện lặt vặt". Và ông F.S Hogan chưởng lý Nữu Ước nói: "Phân nửa các vụ xử trong Tòa đại hình đều do những nguyên nhân rất nhỏ, như thách dọa nhau trong quán rượu, kẻ ăn người ở gây gổ nhau, một câu sĩ nhục, lời nói mất lòng, một hành vi thô lỗ. Những cái lăng nhăng đó đưa đến ẩu đả, rồi xảy ra án mạng. Một nửa những đau đớn của ta là bởi lòng kiêu căng, tánh tự cao, tự đại, tự ái và quá cố chấp những chuyện không đáng mà ra.

Những nỗi bực mình vì những chuyện nhỏ nhặt khiến cho ta oán ghét, thịnh nộ, chỉ vì ta coi nó quan trọng quá, làm cho tâm ta điên đảo mà đáng lý ra phải xem thường và quên nó đi. Chúng ta chỉ sống được vài chục năm trên trái đất này, cớ sao lại bỏ phí thời gian ấp ủ trong lòng những ưu tư, bất bình không quan trọng. Hãy hy sinh đời ta cho các hành động cao thượng và những tư tưởng thiện lành, giàu lòng bác ái vị tha thì thân tâm ta được an lạc và làm cho mọi người vui vẻ, quý mến ta".

Nên nhớ rằng, có mấy ai suy nghĩ được vậy, cứ mãi hơn thua từ việc nhỏ như thị phi nhơn ngã trong gia đình cho đến việc lớn là những cảnh đấu tranh, giết người, cướp của, mưu hại lẫn nhau và chiến tranh giữa các quốc gia đều do tâm địa nhỏ hẹp, dành quyền lợi và phần phải về mình. Như vậy, người ta thua, quấy họ đâu có chịu, vì thế nên oan trái cứ mãi chất chồng.

Muốn hóa giải oan trái, sân hận mau lẹ không gì bằng chấp nhận tất cả sự xấu hổ, nhường điều tốt lành cho người.

Phật bảo người nào làm được như thế sẽ hóa giải hết oan trái, hận thù và sanh ra vô lượng công đức mau thành Phật quả.

Kinh Pháp Cú Phật dạy:
  • "Lời ác hay mắng chửi
    Kiêu mạn khinh miệt người
    Gian tham và trộm cướp
    Đánh đập cùng giết hại
    Ai làm hạnh nghiệp này
    Thù oán sẽ theo đây.
    Lời ôn tồn hòa thuận
    Tôn kính chẳng khinh ai
    Biết đủ và bố thí
    Từ bi đối mọi người
    Mở trói buộc an nhẫn
    Thù oán tự hết ngay
    ".
Khổng Tử dạy:
  • "Lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng
    Lấy đức báo oán, oán ây tiêu tan
    ".
Qua lời dạy của Phật và Thánh bảo ta phải hỷ xả những kẻ hại ta, thù oán hôm qua đừng giữ lại trong tâm, những kẻ phụ ta chớ ưu sầu lưu luyến, không nên để lòng hận thù che mờ lý trí.
  • "Sân hận âm thầm thiêu huệ mạng
    Lửa phiền ngùn ngụt đốt tâm can
    Sân si tạo nghiệp một đời
    Nghìn năm thọ khổ, muôn đời trầm luân
    ".
Đó là những lời ân cần của các bậc Thánh hiền nhắc nhở các hàng Phật tử, vậy mà có mấy ai nghĩ ra cứ mãi cho người hiền thường bị kẻ khác bắt nạt. Đó là quan niệm sai lầm nhiều người đã vướng mắc.

Muốn khắc phục quan niệm này, ta phải vững niềm tin nơi Tam Bảo, tin sâu lý nhân quả. Tự hỏi tại sao người ta không lấn hiếp kẻ khác mà lại bắt nạt, gieo khổ cho mình? Khi đó nên nhớ lời Phật dạy, cố gắng nhẫn nhục coi như kiếp trước mình gieo khổ cho họ, bây giờ bị người ta làm khổ lại, hoặc xem họ như người bệnh, hay kẻ điên, im lặng chấp nhận. Khi đó đối phương tự nhiên cảm thấy cụt hứng cuối cùng đành bỏ cuộc.

Nói đến nhân quả, Phật dạy:
  • "Rằng ai muốn biết nhân xưa
    Hãy xem hoàn cảnh bây giờ chịu đây
    Muốn biết quả báo sau này
    Xem điều tội phước ta nay đang làm
    ".
Nếu như ai không tin, ra oai hung dữ làm cho người chung quanh ngán sợ, kết quả chỉ thêm thù, kết oán mọi người kinh tởm xa lánh. Đó là nguyên nhân làm mất hết sự kính trọng, thông cảm, giúp đỡ của các thành viên trong gia đình. Khi đó ta mất hết chỗ đứng và làm xấu đi sự tương giao ngoài xã hội.

Than ôi! Quả bất thiện chưa trả lại vay thêm... Thực ra tranh cãi hành hung đều là biểu hiện tánh dã man và lạc hậu mà người thông minh có đạo đức không bao giờ hành động như thế.

Nên nhớ trong lúc nóng giận, buồn phiền không nên nói năng hay hành động điều gì hết. Nếu nói làm phần nhiều nó chỉ đưa đến thiệt hại cho mình và người, tốt nhất là nên niệm Phật, hành thiền, quán chiếu nhân quả, hoặc đi giải trí, cho đến khi tâm bình tĩnh, nói làm mới có kết quả tốt đẹp.

Muốn xây dựng một người nào trước tiên là khen ngợi những ưu điểm của họ. Như là anh chị, bạn bè... cái gì cũng tốt, nhưng có một điều chưa được hoàn chỉnh, cố gắng khắc phục thì thật là người gương mẫu trong đời. Như vậy người ta mới hoan hỷ chấp nhận sửa lỗi; ngược lại nếu mình chỉ đem toàn cái xấu của họ ra nói, nguy hiểm nhứt là chỗ đông người. Chúng ta sẽ bị thất bại ngay, không giải quyết được gì mà còn gây thêm thù oán.

Cách giải hóa những xung đột của nhà tâm lý học nói, nếu gặp trường hợp vợ chồng... đang gây gổ đánh lộn, điều cấm kỵ nhất là không được nói lỗi bên nào, mà chỉ nên nói những tai hại của nó; như là nếu anh chị chửi rủa dánh đập với nhau, thì làm cho cả hai đều khổ và làm khổ luôn cho con cháu, ngoài ra còn bị lối xóm dèm pha chê cười... Nếu mà vợ chồng không biết trân trọng với nhau, Bồ Đề Lão Tổ nói: "Hủy hoại vợ chồng kiếp sau lẽ bạn".

Có nhiều người thấy ai đó đang tranh cãi họ liền đến nói lỗi chỉ có một bên, chẳng giải quyết được gì, mà còn làm cho tình hình căng thẳng thêm lên. Nếu không khéo vô tình mình lại bị tai họa lây.

Muốn có cuộc sống hòa hợp tốt đẹp, chúng ta hãy nhìn cách cư xử của những bậc thoát trần ngày xưa.

Thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài đến thăm ba người đệ tử đang an trú tu tập trong rừng Bàn Na Mạn Xá Tự. Đó là tôn giả A Na Luật Đà, tôn giả Nan Đề, tôn giả Kim Ty La. Khi hay tin Phật đến ba tôn giả vô cùng hoan hỷ đồng ra đón tiếp, thỉnh đức Phật vào, trải tọa cụ lên giường mời Phật an tọa, rồi đồng nhau đảnh lễ và vấn an sức khỏe.

Đức Phật hỏi:

- Này các con, sống ở đây có được an ổn, hòa hợp không?

Ba tôn giả thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Chúng con sống rất là hòa hợp, an ổn.

Phật hỏi:

- Cách sống của các con như thế nào mà được hòa hợp an lạc?

Ba tôn giả nghe Phật hỏi như vậy, liền đảnh lễ thưa rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Chúng con sống hòa hợp là nhờ nghe lời Phật dạy, giữ gìn giới cấm, tu hạnh Từ, Bi, Hỷ Xả, khiêm hạ, lễ phép, ôn hòa, nhã nhặn, thông cảm, khoan dung, độ lượng, nhẫn nại, nhịn nhường, tùy thuận, tận tình giúp đỡ lẫn nhau. Chúng con không bao giờ sống với cái tâm riêng tư của mình, mà lúc nào cũng quan tâm tìm hiểu người bạn bên cạnh cần gì để cố gắng làm vui lòng nhau, đồng tiến bước trên con đường giải thoát. Như vậy mà cuộc sống chúng con được hòa hợp từ thân, khẩu, ý đều được trọn lành trước sau như một.

Sau khi nghe ba tôn giả trình bày xong, đức Phật vô cùng hoan hỷ tán thán: "Lành thay! Lành thay! Các con sống hòa hợp không tranh cãi, cùng hiệp nhất trong một tâm, chung một thầy, như nước hòa với sửa, thật là tấm gương lành đáng để cho trời, người kính trọng noi theo".

Còn chúng ta bất bình chống đối nhau là do đâu? Có phải chăng do lòng cố chấp, bảo thủ, hẹp hòi, bắt người ta phải giống mình, nếu như ai không nghe lời làm theo thì mình tìm đủ mọi cách thẳng tay triệt hạ cho hả dạ, thật là độc ác bất công và vô lý...! Tại sao mình không giống người ta, mà lại bắt người ta phải giống mình...?

Phật dạy, con người sanh ra trên cõi đời đều mang theo cái nghiệp khác nhau, cho nên chuyện giống nhau là đều không thể có được, ngoại trừ các vị biết tu.

Đức Khổng Tử nói: "Nhân vô thập toàn". Hễ có ưu là có khuyết, bắt lỗi người phải xét lỗi mình, đó mới là đáng bậc công bình, nẻo chánh trực tri người quân tử.

Cho nên, trong nghệ thuật xử thế mình muốn người ta sửa lỗi, trước tiên mình phải tự sửa đổi, tận tình thương yêu giúp đỡ, đối xử tốt đẹp với tất cả mọi người. Thế hiện qua lời nói, cử chỉ, hành động chân thành đầy lòng bác ái, vị tha, thì tự nhiên người khác đối xử tốt đẹp lại mình.

Người xưa có câu:
  • "Ta vì tất cả mọi người
    Thì mọi người sẽ vì ta
    ".
Ở đời tôi thấy có nhiều người lúc nào cũng muốn người khác nghĩ đến mình, mong cầu phước báo, mọi sự như ý, nhưng chưa thấy họ làm được việc gì lợi ích cho ai mà lại mong cầu đủ thứ, thật là khờ dại! Người trí không cần mong cầu gì cả, lúc nào cũng lập công bồi đức, làm lợi ích cho chúng sanh. Quả lành kia khi không cầu mà tự đến.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Muốn có đầy đủ phước báo, thân tâm an lạc, điều quan trọng tâm phải thanh tịnh.

Trong kinh A Hàm, đức Phật đưa ra mười một phương pháp tu tập để cho tâm được thanh tịnh giải thoát:
  • 1. "Tự mình là thiện tri thức, thân cận, gần gũi thiện hữu tri thức để học hỏi những điều hay lẽ phải"
Người xưa bảo: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Thật vậy, gần người ác, tâm mình trở nên hung ác.

Thí dụ: Như mình hiền hòa mà chơi với những người bạn hung hăng, lỗ mãng, mỗi khi họ nói ra là chửi thề inh ỏi, nói trên đầu trên cổ, nếu nhịn hoài cảm thấy thua lỗ nên chửi lại cho huề; ngay lúc đó mình đã hóa ra người hung dữ. Hơn nữa, gần người ác tánh hung dữ của họ đã làm cho mình khổ và dẫn dắt ta đi vào con đường sa đọa tội lỗi, ngoại trừ bậc thượng căn đại trí gần người ác mới không bị ô nhiễm. Còn gần người thiện lành, học hỏi được những điều hay lẽ phải và nhờ đức tánh thiện lành, từ tốn của họ làm cho tâm mình được an lạc.

Gần người thiện thì giống như vào nhà hoa thơm cỏ lạ, lâu ngày thân mình cũng thơm như vậy. Gần kẻ bất thiện, thì giống như vào tiệm cá ươn, lâu ngày mình cũng hóa ra hôi như vậy.
  • "Chớ thân với bạn ác
    Chớ thân kẻ tiểu nhân
    Hãy thân người bạn lành
    Hãy thân bậc thượng nhân
    ".
    • Kinh Pháp Cú
    2. "Phải giữ gìn giới cấm, thâu nhiếp oai nghi, phòng hộ các căn, dẫu cho thấy một lỗi nhỏ cũng canh cánh lo sợ"
Nếu muốn cho tâm mình được thanh tịnh, điều quan trọng nhất là phải giữ giới, vì nhơn giới mới sanh ra định, nhơn định tâm được thanh tịnh. Nếu không giữ giới thì tâm sẽ loạn động, không bao giờ thanh tịnh. Ngoài ra, mình còn phải thâu nhiếp lục căn khi tiếp xúc với lục trần đừng để cho nó dính mắc, dù một lỗi nhỏ cũng không nên vi phạm.
  • 3. "Điều thiện chưa sanh thì làm cho nó sanh
    - Điều thiện đã sanh làm cho nó tăng trưởng
    - Điều ác chưa sanh thì đừng cho nó sanh
    - Điều ác đã sanh rồi thì phải đoạn trừ
    "
Mghĩa là ác nhỏ không nên làm, thiện nhỏ đừng nên bỏ.

Chúng ta chớ nên xem thường cái ác nhỏ, vì nhiều cái ác nhỏ thành ra cái ác lớn, còn nhiều cái thiện nhỏ thành ra cái thiện lớn.

Trong Khế Kinh, Phật dạy: "Đừng khinh thường ác nhỏ cho dù là không có tội lỗi; giọt nước tuy ít chứa dồn đầy thùng; tội ác lớn cũng do chứa ác nhỏ mà thành. Cũng chờ xem thường chút thiện nhỏ cho dù là không có phước, một giọt nước tuy ít chứa lâu đầy lu. Phước đức lớn cũng nhờ chứa nhiều phước nhỏ mà thành.

"Người làm việc thiện thì sẽ có phước dư thừa, giống như cỏ vườn mùa xuân, không thấy lớn lên nhưng ngày càng tăng nhiều. Người làm việc ác thì sẽ có tai họa dư thừa, như đá mài dao, không thấy hao mòn nhưng ngày càng thiếu hụt" (Thánh Đế).
  • 4. "Không nên tụ tập bàn nói những chuyện nhảm nhí vô ích, phi pháp, mỗi khi nói ra phải như pháp mà nói, lúc nào cũng phải ca ngợi tán thán hạnh thiểu dục tri túc, nói về giới, định, huệ, giải thoát, tri kiến"
Sở dĩ con người bị phiền não khổ đau là do thị phi. Đa phần phụ nữ thường nói chuyện thị phi, người này tốt, kẻ kia xấu, người này đáng thương, người nọ đáng ghét. Nói chuyện ngoài đời chưa đủ, nói chuyện trong chùa, ông thầy này tu hay, ông sư kia tu dở... Nhưng xin thưa với quý vị, người ta đang tu nên vẫn bị nghiệp chi phối, cho nên có cái làm được, có cái chưa làm được, mình đừng vì thế mà sanh tâm hủy báng lạp bè, kết đảng chống đối thưa kiện lẫn nhau, vô tình làm cho ngoại đạo chê cười.

Cho nên đức Phật nói: "Sư tử trùng thực sư tử nhục". Nghĩa là con sư tử không có con vật nào ăn nó được, mà chính con vi trùng trong thân của nó mới giết được nó.

Cũng vậy đức Phật nói: "Đạo của ta, tà ma ngoại đạo không thể phá hại được mà chính trong hàng tứ chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, thiện nam và tín nữ) tự hủy diệt giáo pháp của ta".

Sở dĩ mình tốt là tại vì nghiệp nó chưa tới, chớ khi nó đã tới rồi mình còn hơn người ta nữa. Cho nên người xưa nói: "Ai hay nói lỗi người khác thường bị mắc quả báo".
  • "Ai ơi chớ vội cười nhau
    Cười người hôm trước hôm sau người cười
    ".
    • Ca dao
Lòng từ đức Phật thương hết tất cả chúng sanh cho dù người đó có giữ giới hay phá giới, thiện hay ác, vì con đường đó ngày xưa ngài đã từng đi qua. Những ai còn vướng mắc, đó là những chúng sanh đáng thương chớ không đáng ghét.

Mình nói xấu người khác, người ta không mất gì, chính mình mất cái tâm thanh tịnh. Hơn nữa đến tai người ta, lại sanh ra oán thù đôi chối, hơn thua, sát phạt với nhau nào có ích gì? Nếu người tu không khéo vẫn bị như thường. Còn người nam ở không thì tụ tập kết bè đảng uống rượu, cờ bạc. Hễ rượu vào thì lời ra, câu mâu, quạu quọ, đấm đá lẫn nhau.

Cho nên Thánh hiền nói: "Nhàn cư vi bất thiện" là vậy. Nếu như ai cũng nghe lời Phật dạy, giữ gìn khẩu nghiệp cho được thanh tịnh, gặp ai mình cũng khuyên nhắc lẫn nhau, cố gắng giữ giới. Vì giới là hàng rào ngăn cản các điều ác, đồng thời cũng là chiếc áo giáp thần hộ mệnh, làm cho thân tâm mình được thanh tịnh an lạc. Nếu lúc nào cũng đem chuyện đạo đức ra nói hết thì làm gì có phiền não khổ đau.

Trong kinh Pháp Cú, Phật từng dạy:
  • "Phàm người sống ở đời
    Miệng lưỡi chính gươm đao
    Chửi rủa mắng nhiếc nhau
    Là cầm đao tự hại
    Không bàn luận thị phi
    Suốt đời được an vui
    ".

    5. Quán thân bất tịnh
Quán ba mươi sáu thể trược từ đầu đến chân, đầy dẫy sự bất tịnh. Nào là mồ hôi, nước mắt, nước mũi, dãi, răng, ghèn, ráy, máu, mủ, thịt, da, xương, gân, tim, gan, phèo, phổi, phẩn, tiểu... hay là quan thân bầm tím, sình chướng, nứt nẻ hôi thúi, ruồi đậu kiến bu, dòi rút rỉa; nhờ quán như thế mà tâm được thanh tịnh, xa lìa tham dục và ái nhiễm.

Quý vị nên lưu ý trong khi quán bất tịnh, lấy mình làm đề mục để quán.

Ví dụ: Mình đang nhiễm sắc mà đem một cô mỹ nữ ra quán, vô tình làm tâm động thêm.
  • 6. Quán tâm vô thường
Cái tâm nó luôn luôn sanh diệt vô thường, biến ảo không dừng do nhân duyên hợp lại, nên có con mắt, có cảnh để thấy vậy; tâm không ở trong, không ở giữa, không ở ngoài, nếu đủ duyên thì hợp lại thấy biết, còn hết duyên thì tan rã.

Cũng như cái hộp quẹt có được lửa là do ác duyên hợp lại nào là ga, đá lửa v.v... đủ duyên bật lên là cháy, thả tay hết duyên liền tắt, không thể chỉ nó ở đâu được. Tâm cũng như vậy, tạm gọi là tâm chơn, tâm vọng mà thôi, tâm chơn là thấy biết tất cả mà không tham đắm trụ chấp. Còn thấy biết nghe mà tham đắm trụ chấp, đó là vọng tâm.
  • 7. Quán pháp vô ngã
Quán sát thấy rõ các pháp không có gì là thật; bởi nó đều bị định luật vô thường chi phối. Cho đến cái thân này cũng là vô chủ, nó muốn bệnh hay chết giờ nào mình không sao ngăn được.

Thí dụ: Thân bệnh cho là khổ, hết bệnh cho là vui, thật ra khổ vui thường hay vô thường, tự tánh nó không có gì hết. Cho đến pháp của Phật cũng chỉ là phương tiện, như ngón tay chỉ mặt trăng, hay là thuyền bè để vượt sông mê. Pháp của Phật giống như lương dược tùy bệnh mà cho thuốc. Vì chúng sanh đa bệnh, Phật pháp đa phương, có gì mà phải chấp tu thế này là đúng, thế kia là sai, cao thấp v.v...
  • 8. Quán thọ thị khổ
Càng thọ nhiều, càng khổ nhiều, cũng vi vô minh lầm chấp cho thân này là thật, nên mãi tìm đủ trăm phương ngàn kế để cầu ăn mặc, tham đắm sắc dục. Những thứ ấy họ cho là vui sướng, nhưng họ nào có biết vui là gốc của sự khổ đau.

Thí dụ: Muốn ăn ngon, mặc đẹp thì phải cực thân nhọc trí, việc ác gì cũng làm được, bất chấp thủ đoạn, miễn sao cho mình được vinh thân, phì da, của cải đầy rương đầy tủ, ai khổ mặc kệ. Khi có của cải nhiều lại sợ gian phi, trộm cắp rình mò.

Cho đến dâm dục, họ cho là vui sướng, nhưng trong cái vui ấy chứa đầy những thứ ghen tương đau khổ, phiền muộn. Chẳng qua là lấy khổ làm vui, vui trong sự khổ mà thôi, cái vui ở thế gian phù du tạm bợ, phía sau của nó chứa đầy những thứ ưu bi, khổ nạn. Cho nên người xưa có câu:
  • "Vui trong tham dục, vui là khổ
    Khổ để tu hành, khổ hóa vui
    Mong sao tập tánh không vui khổ
    Mới thoát ra ngoài cảnh khổ vui
    ".

    9. Quán sổ tức
Muốn cho tâm không tán loạn, phải theo dõi hơi thở vô ra. Thở ra biết mình thở ra, hít vô biết mình hít vô. Hít vô đến một, thở ra đếm hai, lần lượt đến đếm mười, rồi trở lại bắt đầu từ một. Cứ đếm như thế suốt thời gian tọa thiền, nhờ vậy mà tâm không tán loạn.

Nếu ai tu Tịnh Độ nương theo phương pháp này, niệm hồng danh đức Phật A Di Đà đếm từ một đến mười, và bắt đầu trở lại từ một. Cứ như vậy luân lưu mãi mau được nhất tâm bất loạn, vãng sanh Cực Lạc.
  • "Đệ tử nay tụng trì Phật hiệu
    Niệm niệm luôn tội diệt phước sanh
    Bồ đề chánh giác sớm thành
    An vui thường trú, tử sanh không còn
    ".

    10. Tu tâm từ
Người nào tu tâm từ sẽ diệt trừ được sân nhuế, thân tâm an lạc, người đời kính mến, chư thiên gia hộ, tà ma ngoại đạo, độc trùng ác thú không thể hại được, thức ngủ yên vui, diệt trừ oán nghiệp, oán thù tự giải.

Muốn có tâm từ chúng ta phải mở rộng lòng thương yêu tất cả chúng sanh, gặp ai mình cũng khiêm hạ, lễ phép, kính trọng tận tình, giúp đỡ cả người lẫn vật một cách bình đẳng vô tư, đó gọi là Từ tâm của bậc Thánh. Chính cái tâm bình đẳng này nó sanh ra vô lượng công đức và diệt trừ tất cả phiền não, sân nhuế.
  • 11. Tu vô thường tưởng
Đức Phật dạy: "Người nào tu Vô thường Tưởng, thời vị đó đắc được Vô Ngã Tưởng, doạn trừ hết ngã mạn".

Có nghĩa là quán tất cả các pháp do các duyên hòa hợp, không có thật, cho nên diệt trừ được ngã mạn, chấp ngã, chấp pháp, dẫn đến thành tựu đạo quả, cứu cánh giải thoát Niết Bàn, bất sanh bất diệt.

Để cho tâm được thiện lành, trong kinh Hiền Ngu nói: "Ở nước Ba Tư Nặc có một người cư sĩ tên là Ưu Ba Cúc Đề làm nghề buôn bán. Bấy giờ có ngài A la hán tên là Đa Thế Bệ, đến nhà thuyết pháp giáo hóa, dạy Ưu Ba Cúc Đề luyện tâm bằng cách lấy một mớ đậu đen, trắng để trong túi áo. Hễ nghĩ đến một niệm lành thì lấy một hạt đậu trắng bỏ vào lon, nếu khởi một niệm ác thì lấy một hạt đậu đen bỏ vào trong lon.

Ưu Ba Cúc Đề vâng theo lời dạy. Ban đầu đậu đen nhiều hơn đậu trắng, dần dần tu tập đen trắng ngang nhau. Rồi chăm tu chẳng gián đoạn nên không còn hạt đậu đen nào cả, chỉ toàn là đậu trắng. Khi ấy niệm thiện đã thắng niệm ác. Ưu Ba Cức Đề chứng đắc sơ quả.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Phật dạy: "Phải giữ năm giới, tu thập thiện, hành lục độ, tứ vô lượng tâm, tứ thiền, ba môn giải thoát chính là pháp yếu điều phục tâm mình".
  • "Thợ cung lo chuốt tên
    Thuyền sư lo lái thuyền
    Thợ mộc lo cưa đục
    Người trí điều phục mình
    ".
Cất trăm ngôi chùa Phật, chẳng bằng cứu sống một người, cứu sống khắp mười phương thiên hạ, chẳng bằng một ngày tu tâm" (Kinh Mã Ý).

Tu tâm là một vấn đề rất quan trọng:
  • Người đời tham, sân, si vì chẳng biết tu tâm.
  • Gia đình không hạnh phúc, vì chẳng biết tu tâm.
  • Xóm làng hay rầy rà, kiện cáo, vì chẳng biết tu tâm.
  • Nước nhà rối loạn, vì dân chúng chẳng biết tu tâm.
  • Thế giới chiến tranh, vì nhân loại chẳng biết tu tâm.
  • Phật tử tu hành bị thối chuyển, vì chẳng biết tu tâm.
  • Người biết tu tâm, mới có lòng từ, bi, hỷ, xả.
  • Gia đình có tu tâm, thân tộc mới được hạnh phúc.
  • Xóm làng có tu tâm, trong thôn mới được an ổn.
  • Quốc gia có tu tâm, nước nhà mới thạnh trị.
  • Nhân loại có tu tâm, thế giới mới được hòa bình.
  • Phật tử có tu tâm, mới mau thành đạo, chứng quả.
Làm hiền nhân quân tử, thành Phật đắc đạo cũng nhờ tu tâm. Thiện ác, tốt xấu, khổ vui, đều do tâm tạo ra tất cả.
  • "Là Phật tử biết tâm dong ruổi
    Luôn tìm cầu, đeo đuổi chẳng nhàm
    Không sao thỏa được lòng tham
    Tội kia theo đó càng làm càng sâu.
Biết giác ngộ, xa lìa ngũ dục
Thấy tử sinh là ngục khổ đau
Tu tâm quét sạch trần lao
Theo đường Thánh đạo, cùng nhau Niết Bàn
".

Nói tóm lại, vạn pháp đều do tâm tạo, phàm trong khi tác ý muốn làm việc gì cần phải lấy trí huệ, tư duy quán xét, nếu như việc nói năng, hành động đó đem đến lợi ích cho mình và người, thì nỗ lực làm, còn nếu đem đến thiệt hại cho cả hai, hoặc lợi mình, hại người thì phải đoạn trừ. Muốn cho có trí huệ sáng suốt, điều quan trọng là tâm phải thanh tịnh, muốn cho được thanh tịnh, tự mình là thiện trí thức và phải gần người thiện lành, cố gắng giữ giới, phòng hộ các căn, khi nói ra phải như pháp mà nói lời đạo đức, tích cực làm việc thiện, quán thân mình là dơ bẩn, vật chất là giả tạm, tâm không thật, pháp chỉ là phương tiện. Có nghĩa là thấy biết tất cả mà không bị ô nhiễm vướng mắc, trụ chấp, đó là tâm chơn thường, chơn lạc, tự tại, giải thoát. Đây là phương pháp nhiếp tâm để duy trì chánh niệm, phản tỉnh thanh lọc làm cho tâm được trong sạch thanh tịnh. Động, tịnh, khổ, vui, những môi trường, hoàn cảnh xung quanh chúng ta tốt hay xấu đều do tâm tạo ra mọi cảnh ngộ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

IV. HOÀN CẢNH VÔ THƯỜNG
Như quý vị cũng từng thấy và chứng kiến không biết bao nhiêu những cảnh vinh nhục, sang hèn, được mất, hơn thua cứ tiếp tục diễn ra trước mắt: nào là lâu đài xe cộ, của cải vật chất đầy kho đi chăng nữa, nhưng chỉ cần một trận động đất, thiên tai hỏa hoạn, bão tố lũ lụt hay trải qua một cơn binh biến cũng trở thành những đống tro tàn, gạch vụn vùi sâu trong lòng đất.

Kìa! Là cung điện nguy nga của Tần Thủy Hoàng, được xây bằng xương máu của nhân dân mà giờ đây còn đâu! Nọ là thànhCổ Loa kiên cố, nay chỉ còn lại những ký ức xa mờ. Và còn biết bao nhiêu thành phố nguy nga, tráng lệ đã vùi sâu vào lòng đất hay dưới đại dương, khi trải qua một cơn động đất tàn phá, núi lửa phun trào, khủng bố, chiến tranh thảm khốc do loài người tàn bạo gây nên... Làm cho vô số sanh linh chết thảm...! Những người còn sống sót phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, đói đau không thuốc, khiến cho vợ xa chồng, cha mẹ biệt ly con cháu, kẻ ở góc biển, người cuối chân trời, bơ vơ trông chờ thương nhớ.

Trong đời sống hàng ngày, luôn luôn có sự thay đổi, từ đường lối, chánh sách; cho đến những cảnh đất lở, sông bồi, núi non, biển cả, mây gió, trăng sao đều luôn luôn chuyển biến "thương hải biến vi tang điền".

Những điều đó thường xảy ra trên quả địa cầu này. Quý Phật tử có nghe đài, xem báo đã rõ. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy: "Tam giới vô an du như hỏa trạch". giống như ở trong nhà lửa, ngũ trược ác thế thật đáng khiếp sợ. Nhưng vì một chút miếng mồi ngũ dục làm cho chúng sanh quên hết những khổ nạn đang bao vây bên mình. Quý Phật tử nên nhớ tất cả vật chất trên cõi đời này đều vô thường giả tạm, vì:
  • "Của vốn năm nhà ta chẳng có
    Thân này tứ đại vốn là không
    ".
Năm nhà đó là: giặc cướp, lửa cháy, nước trôi, con hư phá sản, nhà nước xung công. Viết đến đây tôi nhớ mẫu chuyện:

Có ông trưởng giả nọ có bốn bà vợ: bà thứ nhất ông coi như khúc ruột, nhất hô bá ứng, muốn cái gì có cái nấy. Bà thứ hai tuy địa vị không bằng bà thứ nhất, nhưng lúc nào cũng quanh quẩn bên ông thì mới vui. Bà vợ thứ ba lâu lâu ông ta mới để ý tới. Còn bà vợ thứ tư, số phận rất hẩm hiu không khi nào ông đoái hoài đến.

Một hôm ông trưởng giả lâm phải cơn bệnh nặng. Biết mình không qua khỏi, bèn cho gọi bốn bà vợ tới. Ông nhìn bà vợ thứ nhất nói: "Anh có bốn vợ, em là người anh yêu thương nhất, vậy khi nào anh chết, em hãy cùng anh qua thế giới bên kia cho tròn câu: ồng thì đồng tịch đồng sàng, chết thì đồng quan đồng quách".

Bà vợ thứ nhất nói: "Em biết tình của anh đối với em rất mạn nồng, nhưng chết là âm dương cách biệt, đường ai nấy đi em không thể theo anh được".

Bao nhiêu gởi gấm vào bà vợ thứ nhất, không ngờ bà trả lời như vậy. Ông trưởng giả buồn tủi, ngước nhìn bà vợ thứ hai, ông hỏi: "Còn em thì sao?"

Bà vợ thứ hai trả lời một cách phũ phàng hơn: "Hàng ngày anh yêu thương chị cả nhiều hơn em, mà chị còn không chịu đi theo anh, thử hỏi làm sao mà em đi theo anh được? Hơn nữa, em báo cho anh biết, anh tắt thở giờ nào, em đi lấy chồng giờ đó".

Ông trưởng giả nghe qua vô cùng buồn bã, bất mãn, chán nản, đau khổ, gượng nhìn bà vợ thứ ba, thấy bà vừa khóc vừa nói: "Anh đường lo khi nào anh chết, em sẽ lo ma chay thuần thất, giỗ quải cho anh, chớ em không thể thực hiện được yêu cầu của anh".

Ông trưởng giả nghe qua nghẹn ngào tuyệt vọng, tự nghĩ suốt cuộc đời của mình luôn hy sinh, chịu đựng không biết bao nhiêu gian lao cực khổ để lo cho các bà vợ. Bây giờ, không ai đi theo mình mà còn có những hành động phũ phàng, vong ân, bội nghĩa, thật đáng buồn cười cho thói đời đổi trắng thay đen. Ông vừa nghĩ vừa ứa nước mắt.

Bà vợ thứ thấy vậy bèn nói: "Tuy hàng ngày anh không ngó ngàng tới em, nhưng em tình nguyện theo anh, anh đến đâu là em tới đó".

Không chỉ riêng ông trưởng giả đó có bốn bà vợ thôi đâu, mà trong tất cả chúng ta đều có sẵn bốn bà ấy.

Bà thứ nhất là chỉ cho thân mình, vừa đói đã ăn, vừa khát đã uống, vừa lạnh đã đắp, nực thì quạt liền, tìm đủ mọi cách cung phụng cho thân được đầy đủ tiện nghi, tha hồ hưởng thụ ngũ dục trên sự đau khổ của người khác. Nhưng khi chết rồi nó trở thành thây ma, hôi thúi trong nghĩa địa, nếu đem đi thiêu chỉ còn lại một nắm tro tàn mà thôi.

Còn bà thứ hai là chỉ cho tiền tài, của cải vật chất khi còn sống nó là của mình, đến lúc chết nó qua tay người khác chớ có đem theo được gì đâu? Cho nên bà ta nói: "Anh chết giờ nào, em đi lấy chồng giờ đó" là vậy.

Còn bà thứ ba chỉ cho thân bằng quyến thuộc, dầu họ có thương mình lắmm là lo ma chay, tuần thất, giỗ quải, khóc lóc kể lể, tiễn đưa quan tài tới mộ huyệt hay lò thiêu là cùng, chứ không ai dại gì mà chết theo...

Bà thứ tư là chỉ cho những nghiệp lành hay dữ trong đời bình sinh của mình, có nhiều khi vì vợ, vì con hay thân bằng quyến thuộc mà tạo không biết bao nhiêu lỗi lầm. Ăn chung, tội thì lãnh riêng. Kinh Địa Tạng cũng dạy: "Tội mình làm thì tự gánh lấy không ai thay thế được cả". Vậy mà chẳng có mấy ai tỉnh thức, cứ mãi đắm mình trong tình, tiền, danh, lợi. Vì quá tham lam, con người tìm đủ trăm phương ngàn kế đem ra thi thố tranh danh đoạt lợi, giành giựt từng chén cơm, manh áo, tranh nhau từng tấc đất, cực lực đấu đá với nhau cho đến chín sống, mười chết, tha hồ hốt của phi nghĩa, nhưng họ lại quên rằng: "Tất cả ai rồi cũng chết". Hễ có rồi lại không, hôm nay của mình, ngày mai qua tay kẻ khác. Thế mà có người ỷ mình giàu sang mua quan, bán chức, nghinh ngang, hống hách, đàn áp, bóc lột, sống xa hoa, kiêu kỳ trên xương máu mồ hôi, nước mắt của người khác, cho rằng như thế là hay là giỏi. Nhưng họ đâu có ngờ rằng, chỉ cần sa cơ thất thế phải lâm vào hoàn cảnh tù đày, hoặc tử hình hay tha phương cầu thực.

Trong kinh Bồ Tát Giới có dạy: "Tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc, cha mẹ nhiều đời chết rồi sanh trở lại trong lục đạo".

Nếu chúng ta giết hại hoặc hơn thua, tức là sát phạt, tranh giành với người thân trong quá khứ của mình chứ không ai xa lạ.

Kinh Báo Hiếu, Phật lạy đống xương khô để tưởng niệm lục thân quá khứ, ngài đã từng tuyên bố: "Tất cả người nam là cha ta, người nữ là mẹ ta, từ đó mà sanh ra" Như thế để chỉ cho chúng ta thấy rõ lẽ đó mà mở rộng lòng từ bi đối xử với tất cả chúng sanh. Nếu không mình sẽ trở thành kẻ cuồng si độc ác, sát hại người thân trong quá khứ, vun bồi cho người thân hiện tại thật là tội lỗi và vô nghĩa. Đó là điều lầm lẫn do thiếu trí huệ mà ra.

Con người vì lòng tham vô bờ bến, mong cầu đủ thứ nào là giàu sang, quyền chức, vua chúa, vợ đẹp, con ngoan, mọi sự như ý, khổ cực tìm cầu không được thì bực tức, ưu phiền, nếu có được đi chăng nữa, đến chi mất lại càng khổ thêm; tài sản, tiền bạc thật là mong manh tạm bợ, có rồi không, được rồi mất, giàu rồi nghèo, công danh chức tước, địa vị thăng giáng vô thường, vinh quang rồi cũng tủi nhục, kính trọng hay khinh bỉ, phú quý vinh quang trong đời chỉ giấc mộng giữa đêm. Ngay tấm thân mà ta mỗi ngày tắm rửa, quý trọng rốt cuộc được bao năm?

Có một bài thơ nói đúng cái lòng tham không biết đủ của con người:
  • Suốt ngày bận rộn cũng chỉ vì
    Lo ăn, lo mặc chuyện áo y
    Ăn mặc đủ rồi lại suy nghĩ
    Phòng trung còn thiếu thê cùng thiếp.
    .
Vợ đẹp hầu non đều đủ cả
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi!
Ngựa đã thành bầy, xe có sẵn
Lại lo ruộng ít khó thu chi.
  • Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
    Sợ không quan chức bị người khi!
    Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
    Ngũ phẩm, thất phẩm có ra gì.
    .
Nhất phẩm vừa lên ngôi Tể tướng
Lại chưa vừa ý muốn làm vua
Thỏa lòng lên được ngôi Thiên tử
Mơ ước thành Tiên sống trường kỳ.
  • Than vọng leo thang không dừng nghỉ
    Vô thường chợt đến ôm hận đi...!
    .
Đây là nói hạng người sống trong dục vọng, không bao giờ biết đủ về sự giàu sang, công danh; để kiếp người trôi qua trong phiền não, khổ đau. Chúng ta ai cũng biết cho dù phú quý, vinh hoa đến đâu, ngày ăn ba bữa, tối ngủ một giường, tham đắm làm chi cho khổ thân nhọc trí
  • "Ngàn gian nhà rộng thênh thang
    Đêm nằm ngủ chỉ vài gang là vừa
    Tiền muôn bạc vạn thải thừa
    Ngày ăn ba bữa cất chừa làm chi?
    ".
Cái mà người đời yêu quí nhất là thân thể xinh đẹp, tài sản dồi dào. Nhưng đến phút cuối cùng của cuộc đời, thân thể, tài sản tất cả đều mang theo được gì?
  • "Một mai vô thường đến
    Mới hay mộng huyễn thân
    Muôn việc đem chẳng được
    Chỉ nghiệp theo thức thần
    ".
    • Kinh Pháp Cú
Nói đến sự lo nghĩ về tham dục. Thuở Phật còn tại thế, có bốn vị tân học Tỷ kheo ngồi bàn luận về chuyện thế gian.

Vị thứ nhất nói: "Vào mùa xuân cỏ cây xanh tốt, hoa tươi khoe sắc, nếu đi dạo chơi thì thật là vui".

Vị thứ hai nói: "Bà con hội họp, chén tạc chén thù, nghe âm nhạc, thưởng thức múa ca. Đó mới là vui nhất".

Vị thứ ba nói: "Tiền của thật nhiều, cần gì có nấy. Xe ngựa, quần áo, đồ trang sức thật lộng lẫy, khi ra đường ai nhìn cũng trầm trồ khen ngợi. Đó mới thật là vui".

Vị thứ tư nói: "Vợ đẹp, hầu non với lụa là gấm vóc, son phấn ngát hương, mặc tình vui chơi. Đây mới thật là vui".

Đức Phật biết bốn vị tân Tỳ kheo để tâm dong ruổi theo lục dục mà không xét đến lẽ vô thường. Ngai bèn cho gọi bốn vị đến bảo: "Những điều mà các ông bàn luận toàn là những thứ đưa đến lo sợ, oán thù, bại vong không phải là pháp an vui. Các ông phải suy xét: Vạn vật xuân thì tươi tốt, sang thu lại tàn tạ. Bà con xum vầy vui vẻ rồi cũng phải chịu cảnh chia ly. Tài sản ngựa xe là của năm nhà, thê thiếp xinh đẹp là đầu mối yêu ghét. Kẻ phàm phu cũng vì nó mà chuốc lấy tai họa vào thân, những nỗi lo sợ đầy dẫy. Ba đường tám nạn, muôn nỗi khổ đau đều do tham dục mà ra. Vì vậy, các bậc Sa môn xả tục cầu đạo, chí hướng vô vi, không tham tài, sắc, danh, thực, thùy, thì tự nhiên đạt đến Niết Bàn. Đây chính là chỗ tuyệt đối an vui".

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ:
  • "Ham vui sanh ra lo
    Ham vui sanh ra sợ
    Nếu không có ham vui
    Đâu còn lo sợ gì
    ".
Bốn vị tân Tỳ kheo nghe pháp nghĩa này lấy làm hổ thẹn, ăn năn sám hối, tâm chợt khai ngộ, vọng tưởng chấm dứt, tham dục không còn, chứng đắc đạo quả A la hán. (Kinh Pháp Cú Thí Dụ)

Cũng vì danh lợi tình làm cho con người phải điêu đứng, đảo điên, khổ sở, thất vọng đến đỗi phải quyên sinh.

Như tôi thấy thỉnh thoảng có người đem vong vô chùa, hỏi ra mới biết chết vì thất tình, mình nghĩ thế gian bộ hết người rồi sao mà lại dại đột đến thế. Nhưng khi xem kinh mới biết chẳng qua họ chết vì kiếp trước đã từng làm cho người ta khổ lụy chết thảm. Bây giờ tự nhiên nghiệp thức khiến cho họ tự nghĩ, nếu không sống chung với người đó thì chết, chứ không ai thay thế được. Vì nhân nào quả nấy đành rành chẳng sai.
  • - Tình phụ bạn, bạn có buồn không nhỉ
    - Bạn phụ tình, bạn nghĩ thế sao!
    .
Bởi vậy Cổ Đức than rằng:
  • "Hố sâu tình dục lại ghiền
    Ghiền cho đến chết, chúng khiêng quan tài
    Nhắm mắt cũng nắm hai tay
    Đâuêm tiền của, đem rày hầu hon
    Chỉ có tội phước hãy còn
    Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm đài
    Phước nhiều Tiên cảnh lên rày
    Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê
    Chừng ấy mới thấy gớm ghê
    Ăn năn chẳng kịp, khó bề tính toan.
    .
Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Phật nói: "Tất cả chúng sanh tham đắm vui đời mà chẳng lo nghĩ đến vô thường. Ví như có người ở giữa đồng nội, bị con voi diên đuổi, sợ quá chạy hoảng, thấy một cái giếng khô cạnh đó có một rễ cây, người ấy nương rễ xuống giếng, chẳng may dưới giếng có ba con độc long rất to đang hả miệng trông lên. Bốn phía lại có thêm bốn con rắn độc phùng mang dữ tợn, lại có hai con chuột trắng đen cắn phá rễ cây.

Bấy giờ con voi điên đã đến miệng giếng, người ấy vô cùng khiếp sợ vì không còn chỗ tránh. Trong lúc tuyệt vọng, người ấy ngó lên thấy trên cây đứng bên giếng có một tổ ong đang rơi xuống năm giọt mật trúng ngay miệng, anh ta say sưa nếm mùi vị ngon của mật, mà quên hết sự nguy hiểm đang xảy ra bên mình. Còn đáng sợ hơn nữa là anh ta chẳng muốn ra khỏi giếng đầy nguy hiểm đó.

Con voi điên là ví dụ cho cảnh vô thường của cõi đời; cái giếng là nhà cửa của chúng sanh; ba con độc long là "ba độc" dụ cái nhân của ba đường ác, bốn con rắn độc là dụ cho thân tứ đại; rễ cây dụ cho mạng căn con người, hai con chuột đen trắng dụ cho ngày đêm. Năm giọt mật dụ cho năm món "dục lạc" tài, sắc, danh, thực, thùy. Mạng căn của con người mỗi ngày càng mòn dần, chẳng chút ngừng nghỉ. Người tu hành phải quan sát cơn vô thường để xa lìa các nỗi khổ lụy.

Đế đánh thức người đời, trong kinh Pháp Cú Thì Dụ, Phật dạy: "Khi đức Phật ngự tại nước Xá Vệ, trong thành có một ông già dòng Bà la môn đã tám mươi tuổi, nhà giàu của cải vô số. Nhưng ông ta thuộc hạng người khó độ, chẳng biết gì về đạo đức, cứ mãi tạo nhiều điều bất thiện, không biết lo cơn vô thường mà chỉ biết lo làm nhà cho đẹp, tạo tác đủ thứ nào là nhà trước nhà sau, nào là lầu mát nhà ấm, nào là nhà đông nhà tây, hai hàng dài có chừng vài chục nóc. Nhưng chỉ cái nhà trước và nhà sau còn cách nhau chưa liền, mỗi khi đi lên xuống thường bị mưa nắng bất tiện, nên ông đích thân ra chỉ huy cho chúng thợ làm.

Bấy giờ đức Phật đạo nhãn xem thấy ông già này không còn mấy hôm nữa sẽ bị tận mạng, thế mà ông nào có tự biết gì đâu, nên cứ loay hoay nhọc sức, không ích gì cho đời sau, thật là đáng thương!

Đức Phật và A Nan, hai thầy trò cùng đi đến tận nhà, vui vẻ hỏi ông rằng: "

- Ông lão làm gì đó, có nhọc mỏi không? Và nay còn cất nhà này nữa chi thế?

Ông đáp và giải thích:

- Nhà trước để tiếp khách, nhà sau để tự ở, hai dãy đông tây cho con cháu, tôi tớ ở, và đẻ của cải. Mùa hè nóng bức, thượng lên lầu cao cho mát, mùa đông lạnh lẽo, xuống nhà kín cho ấm. Ngài đa hiểu hết chưa?"

Đức Phật bảo:

- Ta nghe danh ông lão đã lâu, muốn gặp nhau để đàm luận cho vui, nay Ta sẵn có một bài kệ khẩn yếu; kệ này có ích cho những lúc an lành hay bất hạnh, giờ đây muốn tặng cho ông, vậy nên nghỉ tay cũng ngồi. Ta đọc cho ông nghe được không?

Ông đáp:

- Tôi đang bận việc lắm, nên không thể ngồi đàm luận được, mai mốt nếu ngài đến thời hay biết mấy. Nếu bài kệ khẩn yếu thì ngài cứ việc đọc, tôi vừa làm vừa nghe cũng được.

Đức Phật phải chiều lòng đọc kệ:
  • "Có con thêm có của
    Người mê lo bận rộn
    Ta chẳng phải là ta
    Con, của đâu là thật
    Cao sang sẽ sa cơ
    Của cải hợp rồi tan
    Tài sản nhiều đến đâu
    Không tránh khỏi già chết
    Người ngu không lo trước
    Chẳng biết tai họa đến
    Ngu tự xưng là trí
    Ấy thật là rất ngu
    ".
Ông già bạc phước ấy khen:

- Ngài thuyết kệ rất hay, nhưng nay bận quá, ngày mai ngài đến, chúng ta sẽ cùng bàn luận thì hơn.

Thế là đức Phật thương hại cho ông ta rồi ra đi.

Đức Phật vừa đi không xa, ông gì tự tay đưa cây lên cho thợ làm, chẳng may bị sẩy tay cây rơi xuống đánh vỡ đầu chết ngay tức khắc. Người nhà la khóc vang dội động cả xóm làng. Đức Phật đi chưa bao xa thì xảy ra tai biến này.

Ngài đi đến một làng khác, vừa gặp mười ông Phạm Chí, họ hỏi:

- Ngài đi đâu vậy?

Phật đáp:

- Ta đến nhà ông già ở làng kia với mục đích để thuyết pháp, nhưng ông không tin, và cũng không biết tai biến vô thường. Ta vừa đi thì ông đã chết vì cây rơi trúng.

Rồi đức Phật lại vì các ông Phạm Chí thuật lại ý nghĩa bài kệ mà ngài vừa mới đọc cho ông già nghe lúc nãy.

Nghe ông các ông Phạm Chí vui mừng hớn hở, đều được thấy dấu vết của đạo.

Liền đó, đức Phật thuyết một bài kệ khác cho mấy ông nghe:
  • "Ngu ám gần người trí
    Như bầu chứa hương vị
    Chứa đựng tuy đã lâu
    Mà chẳng biết được mùi
    Sáng suốt gần người trí
    Như lưỡi nếm các vị
    Khi đưa đến chót lưỡi
    Thì liền biết vị gì
    Người ngu lo tạo tác
    Vì thân chuốc tai họa
    Cam lòng làm việc ác
    Tự gây ra tội nặng
    Khi ăn năn đã muộn
    Dầu cho có khóc than
    Nào có ích lợi gì!
    Nhân ác nghiệp gây rồi
    Trả báo do nhân gieo
    Phải chịu quả đắng cay
    ".
Các ông Phạm Chí được hân hạnh nghe bài kệ này, lòng tin càng vững bền, vui mừng làm lễ phụng hành.

Cổ Đức cũng dạy:
  • "Thương bấy người đời không vẫn không
    Ruộng vườn, nhà cửa có rồi không
    Vợ con, cha mẹ rồi cũng chết
    Danh lợi, giàu sang rồi cũng không!
    Trăm khéo, trăm khôn tuồng giả tạm
    Ngàn mưu, ngàn kế cũng hoàn không
    Suốt đời lo lắng gầy cơ nghiệp
    Nhắm mắt hai tay không vẫn không
    ".
Ngẫm lại, từ cổ chí kim danh vọng, vật chất có gì tồn tại mà phải lao tâm, nhọc sức gây ra nhiều ác nghiệp như núi Thái Sơn để tiếng nhơ lưu hậu thế. Ôi! Vòng danh lợi kiên cố đã giam hãm con người từ vô lượng kiếp. Xã hội càng văn minh, khóa lợi cùm danh càng siết chặt. Vì thế người đời cả sang lẫn hèn, chẳng có mấy ai tự tại an vui, muốn khỏi bị danh lợi xiềng trói, ta chớ nên tham mến nó.

Phật dạy: "Vạn vật vô thường, vinh hoa phú quí, ân ái trên đời này đều huyễn hóa, như giấc mộng, như tiếng vang, có đó rồi mất đó, nào có trường tồn, nhân duyên càng nặng, ngày khổ lụy càng dài, của cải chất đầy như núi không ích chi cho mình. Tham dục mưu đồ danh lợi là tự chuốc lấy khổ đau, sao bằng dứt tham cầu, học đạo vô vi.
  • "Thế gian đầy trân bảo
    Chất đến tận trời cao
    Vẫn không bằng thấy đạo
    Giàu sang sanh được nào
    ".
    Kinh Pháp Cú Thí Dụ
Đức Phật chủ trương đạo giải thoát, khuyên chúng sanh ít tham muốn, biết đủ, bố thí để diệt trừ tham lam, keo kiệt, bỏn xẻn.

Nói đến phước báo của sự cúng dường bố thì:

Thuở Phật còn sanh tiền, một hôm tín nữ Sumana sy bát cúng dường Tam Bảo xong. liền đến đảnh lễ đức Phật, thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Con thường sớt bát cúng dường và bố thí, những việc làm đó kết quả của nó như thế nào? Xin Phật từ bi chỉ giáo?"

Phật bào: "Này Sumana, nếu trước khi con cúng, thí cho đến sau cùng đều khởi tâm hoan hỷ, thời phước đức quả thật vô lượng, vô biên. Hiện tại thân tâm an lạc, người trí khen ngợi, nếu đem hồi hướng cho người thân quá cố, thời cả kẻ còn lẫn người mất đều được lợi ích bằng như đem phước lành đó cầu đạo quả vô thượng Bồ đề, thời sau khi chết sanh trở lại vào nhà tôn quí, xuất gia được thừa hưởng sự cúng dường một cách đầy đủ và chẳng bao lâu đắc được đạo quả Bồ đề".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Kinh A Hàm, Phật dạy: "Nếu người nào thường phát tâm bố thí cúng dường như lời Phật dạy, người đó khi đi, đứng, nằm, ngồi phước đức thường sanh không dứt".

Như chuyện ông Cấp Cô Độc xây cất tịnh xá Kỳ Viên chưa xong mà cung trời đã kiến tạo dành sẵn cho ông rồi; chẳng những vậy thôi nà còn vượt qua mọi ách nạn.

Thuở xưa, đức Phật tu khổ hạnh trong rừng già, Ma vương đến quấy nhiễu đủ mọi cách, nhưng không bao giờ làm lay chuyển được tâm ngài.

Ma vương hỏi Phật:

- Sao ngài không ở hoàng cung để hưởng những lạc thú, tội gì dấn thân vào chốn nguy hiểm, khổ cực này? Nào: rắn, rết, hổ, beo, ma, quỷ... Ngài không sợ sao?

Phật từ tốn bảo:

- Có gì mà phải lo sợ.

Ma vương hỏi:

- Ngài lấy chi để bảo vệ?

Phật đáp:

- Chính cái phước đức nó tự bảo vệ ta.

Ma vương không làm sao lung lạc được lòng ngài liền biến mất.

Người có phước còn thoát khỏi địa ngục. Như trong Luận A Tỳ Đàm nói: "Có bà lão nghèo nàn nhưng rất mộ đạo, nên bà cố gắng để dành tiền nhiều năm mới mua được bộ y cúng dường cho chư Tăng. Từ đó, bà giữ niềm hoan hỷ cho đến giờ phút lâm chung, chẳng may do ác nghiệp đời quá khứ, bỗng hiện ra những tướng hỏa hào trong địa ngục. Nhìn thấy anh lửa phất phơ màu vàng đỏ, bà sực nhớ đến bộ y cúng dường, liền khởi tâm hoan hỷ, tức thời lửa đỏ hóa ra sen hồng, thấy tiên đồng, ngọc nữ đến rước bà về thiên giới hưởng phước".

Phật bảo:

- Người nào có phước đức tự nhiên tâm minh, trí sáng; nói làm cầu mong việc chi đều được thành tựu tốt đẹp.

Còn những người không có phước, tâm trí mê mờ, nói không ai nghe, làm đâu thất bại đó, cầu muôn việc đều không thành tựu, thường chuốc họa vào thân.

Ông bà mình thường bảo: "Có đức không sức mà ăn". Vì thế chúng ta nên cố gắng vun bồi phước đức cho mai sau, nếu không khi hưởng hết phước thì nguy!

Khổng Tử dạy: "Tích chứa sách vở để lại cho con cháu, chưa chắc đọc được. Tích chứa vàng bạc để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc giữ được. Chi bằng tích chứa âm đức, tuy thấy mờ mờ mà để lại cho con cháu lâu dài".
  • "Mở lòng dâng một bát cơm
    Mở lòng dâng một tiếng thơm cho người
    Mở tay cứu giúp cuộc đời
    Mở tâm rộng mở đất trời bao la.
    Cúng chùa còn hơn cho vay
    Mình ăn thì hết người ăn thì còn
    Dù cho núi lỡ non mòn
    Hãy nên bố thí để dành mai sau
    ".
    • Minh Đạt
Muốn cho sự bố thí cúng dường được kết quả tốt đẹp, phải thực hành bố thí Ba la mật, là không thấy mình thí, vật thí và người thọ thí. Nếu ta chấp vào sự bố thí, cúng dường thì dễ sanh tâm phiền muộn, bực tức, khi họ không làm vừa ý mình. Từ đó sanh ra hủy báng, tự mình diệt hết phước đức.

Như chuyện bà Thanh Đề cúng dường cho chư Tăng mà không được tiếp đón nồng hậu, liền sanh tâm độc ác, lấy thịt chó trộn làm bánh cho các thầy tu ăn, nên mới bị đọa vào cảnh ngạ quỷ.

Do đó, trong khi bố thí vì lòng từ làm cho chúng sanh an lạc mà mình không mong cầu gì hết, cái tâm đó nó rộng lớn như hư không chẳng so lường được. Còn nếu mình tính toán so đo thì phước đức bị hạn chế, không khéo sanh ra tội lỗi, mất hết tất cả phước lành.

Có nhiều người nghèo quá, tôi khuyên bố thí để chuyển hóa nghiệp xấu của mình, họ lại trả lời rằng: "Con nghèo quá lấy gì để cho".

Tôi nói: "Quý vị nghèo cho lắm như hai vợ chồng Đán Nỵ Già chỉ có một cái chăn để đi xin ăn mà còn dám cúng dường cho một vị Tỳ kheo đem về tịnh xá". Đức Phật Tỳ Bà Thi bảo đem lại cho ngài, Phật đưa cái chăn lên tuyên bố: "Trong đại hội cúng dường hôm nay, người cúng dường cái chăn này là phước lớn hơn hết". Tất cả đại hội ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi Phật: "Nguyên do tại sao?"

Phật nói: "Vật tuy khinh mà trọng ở cái tâm chí thành, rồi Phật thuật lại cảnh khốn khổ của vợ chồng Đàn Nỵ Già, ai nghe cũng đều cảm động đem tiền của đến giúp đỡ. Nhờ căn lành đó mà chín mươi mốt kiếp liên tục được sanh vào nhà tôn quí, gặp Phật Thích Ca xuất gia tu hành đắc đạo".

Hai là, truyện ông Khưu Trường Xuân số chết đói, nhưng nhờ lấy thân mình cõng người qua dòng suối Bàn Khê suốt sáu năm. Tiếng tốt đó đồn đến tai vua, liền cho người rước ngài về phong làm Quốc sư. Cho nên thế gian dụng tướng, Phật dụng tâm, chớ không phải vật nhiều hay ít?

Vì thế có câu:
  • "Kiếp trước chẳng thí mới chịu nghèo
    Bây giờ khổ não nó đeo theo
    Người sao của cải càng dư dã
    Nghĩ lại phận mình vắng teo
    ".
Hay là:
  • "Giúp người đừng mong trả ơn
    Hảo tâm bố thí liên tòa được lên
    ".
Ngoài việc cúng dường, bố thí ra, chúng ta còn phải tu thêm huệ. Kinh Phân Biệt Nghiệp nói: "Thường làm việc bố thí mà không tu huệ, đời sau được giàu to, nhưng ngu ám chẳng biết gì, chỉ vui tu trí hệ, mà không bố thí, đời sau được thông minh nhưng nghèo túng, không của cải; thí, huệ đều song tu, đời sau giàu sang, sáng suốt; thí huệ đều chẳng tu, nhiều kiếp bị nghèo ngu!"

Có người hỏi: "Bố thí như thế nào đúng pháp, phi pháp và tu huệ ra sao?"

Trong Khế Kinh Phật dạy: "Bố thí đúng pháp là cho cơm gạo, mùng mền, chiếu gối, quần áo, thuốc men, chô xở... Đó là bố thí dúng pháp. Bố thí phi pháp là cho rượu, thuốc độc, bẫy rập, câu lưới, dao mác, cung tên, sinh mạng các loài vật, đồ âm nhạc, nữ sắc... Những thứ não hại chúng sanh thì không nên cho".

Muốn tu trí huệ, Kinh Di Giáo dạy: "Phải chuyên học hỏi, tinh tấn giữ giới. Nhơn giới mới sanh các thiền định và trí huệ. Nếu năng trì tịnh giới thì được các pháp lành, bằng không tịnh giới, các thiện công đức không thể phát sanh. Vậy nên phải biết giới là chỗ yên ổn công đức thứ nhất".

Phật dạy: "Trong các thí, pháp thì là bố thí bất tử. Phước ấy cao thượng hơn hết trong các phước điền".

Thật đúng như lời Phật nói, nhờ học giáo lý, mình mới biết cách tu hành rồi truyền cho người khác đồng tu cho đến ngày thoát vòng sanh tử. Nên ngài nói chúng sanh nào muốn cho thân tâm an lạc thì phải học giáo pháp. Vì Pháp có công năng diệt trừ ưu não, cấu uế và duy trì tình thương yêu đoàn kết. Từ đó sanh ra phước lộc làm lợi ích cho mình và mọi người. Nhưng ít ai nghĩ đến cứ mãi đam mê vào chốn lợi danh; có lúc xem kinh được vài câu liền sanh tâm ngao ngán bỏ qua, thậm chí có người cả đời chưa xem được chữ nào. Chính vì xem thường lời Phật dạy, nên từ trong gia đình đến xã hội xảy ra lắm cảnh thảm họa thương tâm, thiếu đạo đức là cửa ngỏ đưa đến bại vong.

Để tránh những tai hại đó, quý vị nên cố gắng xem kinh, nghe pháp và truyền trao cho người xung quanh để họ biết cách tu hành, hóa giải ác nghiệp. Nhờ phước đức đó nghiệp của mình cũng được nhẹ theo. Thế nên tôi xin khuyên quý vị, khi có kinh sách hoặc băng giảng nên cho người khác xem nghe. Nếu không để lâu cũng hư mà không sanh được phước, lại thêm kiếp sau phải bị quả báo dốt nát. Như truyện ngài Bàn Đặc, Phật dạy chỉ có hai chữ "Chổi quét" mà ngài không nhớ, cũng do dấu pháp mà ra.

Vả lại vô thường đâu có định ngày. Nếu cứ mãi chất chứa dầu cho có kho vàng, núi bạc, quan quyền, vua chúa, cung phi, mỹ nữ, vợ đẹp, con ngoan, khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang theo được gì ngoài hai chữ tội và phước. Ôi! Tham tất cả rồi cũng mất tất cả.

Các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, ân ái như giấc mộng, gặp gỡ sẽ chia ly, giàu sang danh vọng vẫn đau khổ, chỉ có Niết Bàn dứt hẳn sanh tử, không còn tai ương. Đó mới là an lạc.
  • "Như hồ nước rộng sâu
    Trong lặng, sáng một màu
    Người trí huệ nghe đạo
    Tâm thanh tịnh hết sầu.

    Tâm vọng tưởng dừng nghỉ
    Ngôn hành cũng lặng yên
    Theo chánh đạo giải thoát
    Về diệt độ an nhiên
    ".
    • Kinh Pháp Cú Thí Dụ
Trong kinh Kim Cang có câu: "Của bảy báu trong ba ngàn thế giới đem ra bố thí tuy nhiều. Song dùng hoài cũng hết, chỉ hườn sanh diệt, sao cho bằng nghe được một câu kinh chứng quả Bồ Đề".

Sách Nho có dạy: "Thiên kim dĩ đắc, hảo ngữ nan cầu". Nghĩa là ngàn vàng dễ kiếm, lời lành khó nghe. Vì thế, chúng ta phải tinh tấn nghe kinh, học pháp, để tự mình giải thoát và hướng dẫn người khác tu nhân, học Phật, cải tà quy chánh, cho cõi đời dứt hết khổ đau, thêm phần an lạc.
  • "Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu
    Hay trừ nghiệp chướng dứt lo âu
    Thân tâm thanh tịnh thời giải thoát
    Phước huệ cao siêu tỏ đạo mầu
    ".
Trong việc bố thí pháp có một điều quý vị nên lưu ý, khi đưa kinh hoặc băng cho người khác xem nghe, cần phải xét coi có phù hợp tinh thần giáo lý của đức Phật không? Vì có nhiều người nói: "Không có thiên đường, địa ngục, Tây phương Tịnh Độ, tất cả đều thế gian". Họ nói, khoa học ngày nay phóng phi thuyền lên cung trăng, sao Hỏa, chẳng thấy một vị Tiên nào và thăm dò trái đất cũng không thấy địa ngục ở đâu?

Như chúng ta thấy không gian vô tận có vô số vì sao, khoa học ngày nay mới tới sao Hỏa mà vội cho là không có. Đó chẳng khác nào lấy trí phàm phu mà so lường bậc Thánh, vì trong kinh đức Phât nói: "Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết". Có nghĩa là trong kinh nói: "Có thiên đường, địa ngục, Tây phương Tịnh Độ, mà họ cho là không có, tức là ma rồi".

Cũng nhiều người nói rất là hay, thường đem giáo lý Đại thừa, Bát Nhã ra nói cái gì cũng là "không". Cho nên chẳng cần lẽ bái, tụng kinh, niệm Phật, nhưng chúng ta đã thấy trong kinh Pháp Hoa, tiền thân của đức Phật là Thường Bất Khinh Bồ tát, gặp ai ngài cũng kính trọng, lễ bái, còn ta là phàm phu mà lại coi thường sự lễ bái, tụng kinh, niệm Phật hay sao? Nếu không có tướng thì làm gì có tánh? Như trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy Tu Bồ Đề: "Phàm cái gì có hình tướng, đều là giả dối?", để cho chúng sanh đừng dính mắc vào đó trong lúc tu hành, chớ không phải bỏ hết các hạnh lành? Vì thế Phật nhấn mạnh rằng: "Nếu người nào chẳng giữ giới thì sẽ không thành tựu được định huệ và giải thoát".

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng cũng từng dạy: "Miệng nói tiếng Không, nhân ngã, ba độc (tham, sân, si) chất chồng, sanh tâm ngạo mạn, tham lam, bỏn xẻn".

Nói về lòng tham của con người, hiền nhân có than rằng:

  • Của trần chớ bận lòng tham
    Từ lâu tham nó không làm nên chi
    Tham vốn là căn nguyên sự khổ
    Tham là mồ vô số sanh linh
    Tham danh, tham lợi tham tình
    Càng tham càng thấy lòng mình không an.
Tham khi được rồi toan lo giữ
Rủi mất đi sanh sự rầu buồn
Trong lòng thường rạo rực luôn
Phải tham là vốn cội nguồn khổ chăng?

  • Tham thì gian, kế sang đến tội
    Tội vốn là nguồn cội tử sanh
    Bao nhiêu khổ ách hoành hành
    Do lòng tham đắm nảy sanh phần nhiều.
Vậy ráng bỏ đừng chìu nó nữa
Để cho lòng thường bữa được yên
Những nào túc trái tiền khiên
Chỉ là lo trả lòng nguyền không gây.


Xưa có một nhà hiền triết bảo con cháu khi ông chết, ghi trên mộ bia của ông:
  • "Đến đây tôi chỉ còn lại những gì tôi cho".
Khổng Tử cũng nói:
  • "Thế thượng vạn ban đô thị giả
    Nhơn sanh đạo đức quả duy chơn
    ".
Có nghĩa là: Vạn vật trên cõi đời này, đều là vô thường, giả tạm duy có đạo đức mới là trường cửu.

Đạo là gì? Đạo là con đường, là lẽ phải, cũng là chân lý tuyệt đối đưa chúng sanh từ trong bóng tối vô minh, sanh tử, khổ đau tiến ra ánh sáng Chơn như, giải thoát Niết Bàn, bất sanh bất diệt. Đạo có rất nhiều con đường từ gần đến xa, từ thấp lên cao như là: Địa ngục, đạo, Ngạ quỷ đạo, Súc sanh đạo, A tu la đạo, Nhơn đạo, Thiên đạo, Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật đạo.

Trong luận A Tỳ Đàm Phẩm Lộ Tử Môn, đức Phật dạy những nguyên nhân đưa đến luân hồi trong vòng lục đạo:
  • 1. CON ĐƯỜNG ĐỊA NGỤC:
Phật dạy: "Nếu người nào ôm lòng sân hận quá nặng, giết hại cha mẹ, thánh hiền, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu, đâm chém, bầm chặt, đập đầu, cắt cổ, lột da, chiên xào, nấu nướng, làm cho chúng sanh đau đớn, rên la, dãy dụa, oằn oại, chết thảm chẳng có một chút từ tâm. Người đó trong giờ phút lâm chung, những diễn tiến của lộ trình tâm sẽ tuần tự hiện ra.

Thí dụ như: Tên tướng cướp thì thấy mình đang giết người, cướp của. Còn tên đồ tể thì thấy mình đang đập đầu bò, đâm họng heo, bầm chặt, phanh da, xẻ thịt như thế nào đó... Nó tuần tự hiện ra hết, tiếp theo thấy quỷ sứ đến bắt hồn xuống địa ngục để hành hình. Đó là con đường đến địa ngục đạo".
  • 2. CON ĐƯỜNG NGẠ QUỶ
Phật dạy: "Nếu người nào tính tình tham lam, đụng đâu lấy đó, thẳng tay vơ vét những của phi nghĩa, tàn ác, gian phi, lừa đảo thế nhân, tham quan, ô lại... Những người như thế trong giờ phút lâm chung, tham kiểu cách ra sao, nó tuần tự hiện ra hết. Qua diễn tiến đó, nó hiện ra Ngạ quỷ tướng, sanh làm quỷ đói, khổ sở để đền cái tội tham lam vô độ của mình".
  • 3. CON ĐƯỜNG SÚC SANH
Phật dạy: "Nếu người nào do lòng si mê quá nặng không biết đâu là tốt xấu, phải trái. Thiện cho là ác, còn ác cho là thiện, tin tà mong phước mê tín, với cái tâm mù quáng như thế, trong giờ phút lâm chung, mê muội gây nghiệp ra sao, nó tuần tự hiện ra... Qua diễn tiến đó, nó hiện ra hết thú tướng, thấy con thú cái nào đó đang giao hợp, khởi tâm ái nhiễm thọ thai vào đó sinh ra làm thú".
  • 4. CON ĐƯỜNG A TU LA
Phật dạy: "Nếu người nào tính khí hung hăng, đấu tranh hơn thua. Trong giờ phút lâm chung đấu tranh đấm đá, sát phạt ra sao, nó lần lượt hiện ra hết. Qua diễn tiến đó, nó hiện ra cảnh giới A tu la, là thần chiến đấu hàng ngày đánh lộn với nhau, la lối vang dội cả núi Tu Di. Tâm như thế nào, sanh vào cảnh giới như thế đó. Thích đấu tranh, đấm đá thì sanh vào cảnh đấu tranh. Đó là định luật nhân quả".
  • 5. CON ĐƯỜNG NHƠN ĐẠO
Phật dạy: "Nếu người nào tính khí hiền lương, biết quy y giữ gìn ngũ giới (không sát sanh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu), tụng kinh, niệm Phật, trong giờ phút lâm chung, tự thấy mình đi chùa, dâng hương hoa, lễ Phật, tụng kinh... Qua diễn tiến đó, nó hiện ra một người phụ nữ nào đó có nhân duyên với mình, thọ thai vào tiếp tục sanh ra làm người".
  • 6. CON ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO
Phật dạy: "Nếu người nào chuyên tu thập thiện:
  • - Thân: Không sát sanh, đạo tặc, tà dâm.
    - Khẩu Không nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.
    - Ý: Không tham, sân, tà kiến.
Trong giờ phút lâm chung, những điều lành mình làm được hàng ngày như là: trí chay, giữ giới, tụng kinh, niệm Phật, cúng dường, bố thí, phóng sanh, cứu trợ, ủy lạo, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ. Qua diễn tiến đó, nó hiện ra cảnh giời thiên đường, thấy tiên đồng ngọc nữ đến rước mình về thiên quốc hưởng lấy thiên phước".

Nói tóm lại, nếu người nào tâm địa độc ác, là họ đang đi con đường xuống địa ngục.

Người nào tham lam trộm cắp, keo kiệt, bỏn xẻn là đang đi vào con đường ngạ quỷ.

Ai mê muội mù quáng, không phân biệt được thiện ác, mê tín, tà dại là đi vào loài súc sanh.

Người nào thích đấu tranh, hơn thua là đang đi vào con đường A tu la.

Còn người nào giữ năm giới là đang đi vào cảnh giới người.

Người nào tu tập thập thiện là đang đi vào con đường thiên giới.

Đó là sáu nẻo luân hồi, mình muốn đi lên xuống tùy ý.

Còn nếu như ai muốn thoát cảnh luân hồi sanh tử, thì phải xuất gia giữ hai trăm năm mươi giới, tu lần cho đến khi chứng đắc quả vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật mới thoát khỏi cảnh sanh tử. Giữ năm, mười giới mà còn trật vuột, đừng nói chi tới hai trăm năm mươi giới, rồi trải qua vô số kiếp tu mới thành Phật. Mình mới nghe qua thấy ngán, nhưng trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy:
  • "Tỳ kheo múc nước thuyền
    Nước hết thì thuyền nhẹ
    Thuyền nhẹ lướt đi mau.
    Người đoạn trừ ái dục
    Và luôn cả sân nhuế
    Ái dục và sân nhuế
    Đã dứt sạch không còn
    Thời liền chứng Niết bàn
    ".
Hễ ái dục, sân hận nổi lên là liền diệt, ngay đó là Bồ đề, Niết bàn, vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Có người nói, sao tu hoài mà không thành Phật, thử kiểm lại coi mình tu có giống Phật không? Nếu tu giống thời thành Phật liền, tại mình tu không giống Phật cho nên làm chúng sanh, luân hồi là vậy. Nếu mình nhận thấy không đủ khả năng thoát khỏi luân hồi, thì nên chọn vào cảnh trời người, chớ để rơi vào cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la là nguy hiểm. Do đó ta phải cố gắng tu.

Đời mạt pháp, nếu không siêng năng học tập, tu hành đến lúc lâm chung thì đã muộn. Sở dĩ, có ba con đường dữ là do tham, sân, si. Thân làm ác, khẩu nói ác, ý nghĩ ác, như giận người nào, muốn cho họ chết một cách thê thảm mới hả dạ, nếu ghét ai là thêu dệt đâm thọc, chửi rủa, hủy báng đủ điều quyết cho họ lâm vào cảnh khổ, lại không ưa thấy điều tốt của người, còn như đánh vào người nào, quyết đánh cho họ đau đớn thấu trời, thấu đất. Khi giận hờn, tàn bạo thì không kể tôn ti thượng hạ, phùng mang trợn mắt như lửa đổ, la lối vang dội như sấm nổ, chửi mắng, đánh đập, hãm hại người chẳng chút nương tay.

Còn khi làm phước thì thiện tâm rất yếu ớt, chỉ được lúc đầu, lần hồi ngày qua tháng lại, đến khi quên mất hết việc thiện là xong. Khi làm ác thì tâm lực mãnh liệt, lúc tu hành làm lành thì ý chí bạc nhược, yếu hèn mà lại mong hóa giải hết ác nghiệp, hưởng nhiều phước báo. Có nhiều người vừa mới tụng kinh, niệm Phật lại sanh tâm mỏi mệt chán nản, tự nhủ mình không nên làm cho thân thể quá mỏi mệt sẽ sanh bệnh. Hơn nữa tu hoài mà không thấy linh ứng hay đắc đạo là gặp những chuyện không may, lại đổ thừa tại tu mới đổ nghiệp như vậy. Nhưng họ có biết đâu, nếu không nhờ tu đã chết từ lâu rồi, vì tu là chuyển nghiệp, nặng thành nhẹ chứ không phải là thêm nghiệp, chẳng qua là biện hộ cho tánh giải đãi, lười biếng, ham ăn, mê ngủ, vừa nằm xuống mê man như chết không bao giờ nhớ đến Tam Bảo, kinh luật hay là báo ơn cha mẹ, tổ thầy, cúng dường, bố thí, học pháp nghe kinh, tinh tấn tu hành lục độ là: "bố thí, trì giời, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ", để làm lợi ích cho chúng sanh. Từ sáng đến tối cứ mãi lo nghĩ cái chuyện hơn thua, được không bao nhiêu, phiền não khổ đau lại quá nhiều, chẳng khác nào con thiêu thân đâm đầu vào lửa.

Trong kinh Phật dạy: "Chưa có công đức nào từ sự giải đãi, lười biếng mà sinh ra, và cũng chẳng có chút phước lành nào từ sự kiêu mạn, tự đắc mà được".
  • "Là Phật tử phải nên ghi nhớ
    Lười biếng làm lỡ dở đạo tâm
    Quen theo thế tục lạc lầm
    Đắm mê sa đọa trong hầm khổ đau.
    .
Nên thường nhớ dồi trau tinh tấn
Dũng mãnh tu phá những não phiền
Bốn ma hàng phục bình yên
Khỏi ngục âm giới về miền chân như
".

Trong lục độ lấy tinh tấn làm chủ yếu. Không luận bố thí, trì giời, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, nếu không có tinh tấn thì không cách nào thành tựu Ba la mật.

Trong kinh Tinh Tấn nói: "Có mười điều lợi ích cho người tinh tấn:
  1. Không bị lực lượng bên ngoài chế ngự.
  2. Được chư Phật nhiếp thọ.
  3. Chúng trời người kính ngưỡng.
  4. Nghe được chánh pháp không quên.
  5. Tìm biết được những điều chưa biết.
  6. Tăng trưởng vô ngại biện tài.
  7. Được an trú trong thiền định.
  8. Ít bệnh, ít não, ít bệnh hoạn.
  9. Ăn uống dễ dàng tiêu hóa.
  10. Như hoa ưu đàm nở.
    • "Trên đường đạo không gì bằng tinh tấn
      Không gì bằng trí huệ của đời ta
      Sống điêu linh trong kiếp sống Ta Bà
      Có tinh tấn mới vượt qua tất cả
      ".
Phật dạy: "Chỉ cần quán sát thấy cho rõ thân tứ đại này do đất, nước, gió, lửa tạm hợp thành rồi sẽ tan hoại. Hãy tư duy tỉnh giác để tâm được thanh tịnh, chuyên niệm Tam Bảo và thực hành các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Niệm hơi thở, niệm chết thì thân tâm sẽ được thanh tịnh, tự tại, an lac, giải thoát".
  • "Giữ miệng nhiếp thu ý
    Thâm không phạm lỗi chi
    Ai làm được như vậy
    Sanh tử chẳng còn gì
    ".
    • Kinh Pháp Cú Thí Dụ


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Có nhiều người tu mà cũng sợ, vì nghe nói suốt đời tu hành, nếu trong giờ phút lâm chung, cận tử nghiệp chỉ cần nổi lên một niệm sân cũng vẫn bị đọa như thường. Để giải nỗi nghi đó, chúng ta hãy xem qua câu chuyện sau đây:

Thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài Mahanam đến hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Trọn đời con quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, lập công, bồi đức. Giả sử một hôm nào đó con bị chết một cách bất đắc kỳ tử như là bị tên bay, đạn lạc, voi dày, xe đụng, trong khi chết một cách đau đớn hoảng hốt như vậy, con sanh về đâu?"

Phật bảo: "Này Mahanam! Con chớ có sợ. Như có một cái cây nó nghiêng về hướng nào, sau khi người ta đốn hoặc hết tuổi thọ thì tự nhiên nó sẽ ngã về hướng đó, có gì đâu mà con phải sợ, tâm như thế nào sanh vào cảnh như thế đó" (Luận Tà Trí).

Thí dụ: Người uống rượu khi ra đường họ tìm đến bạn rượu để bày tiệc ăn uống, còn người cờ bạc, hút chích thì đến chỗ cờ bạc, hút chích, còn người Phật tử hiền lành rủ nhau đến chùa tụng kinh, nghe pháp, bố thí, phóng sanh.

Đức Phật nói tiếp: "Ví có người đem đá liệng xuống hố, rồi cùng nhau cầu nguyện cho nó nổi lên, chuyện đó không bao giờ có được, vì thể chất nó nặng phải chìm mà thôi. Người ác cũng thế, khi chết phải sanh vào cõi dữ, đó là lẽ đương nhiên. Còn người lành giống như dầu người ta đem đổ xuống nước, thể chất nhẹ tự nhiên nổi lên. Cho dù kẻ ác có nguyền rủa, trù ếm cho nó chìm cũng không thể chìm được, vì người lành lẽ đương nhiên sanh vào cõi lành".

Nói tóm lại, thân này do tứ đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành, cho nên nó thường xung khắc lẫn nhau mà sinh ra bệnh hoạn, rồi âm thầm suy hoại cho đến ngày tan rã. Suy cho cùng thân này không có cái gì là của ta, đầu, mình, tay, chân, máu, mủ có phải của ta chăng? Không, chúng chỉ là những vật uế trược giả hợp. Nếu nói là của ta, tại sao nó muốn bệnh, chết giờ nào không sao ngăn được. Thân này quả thật là vô chủ chẳng khác nào như mộng ảo, lúc tàn canh do nghiệp si ái mê chấp mà thành mảnh hình hài ảo giả.

Tất cả mọi người đều bị định luật vô thường chi phối, phải chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết, lúc nào cũng phập phồng lo sợ; ngoài cái lo sợ đó ra còn lo rầu đủ thứ: công danh chưa thành,tình duyên trắc trở, tai nạn bất ngờ, thời cuộc biến loạn, thiên tai địa ách, mùa màng thất bát, mua bán không được, làm ăn thất bại, của cải mất mát, bà con nội ngoại ốm đau nghèo khổ, người thân bị bắt giam, cha mẹ, vợ chồng, con cháu đi xa không biết ra sao. Hoặc là gặp cảnh trái ngang, tôi bất trung, vợ chồng bất chánh, con cháu ngỗ nghịch bất hiếu, bị người bội phản, oan gia đòi mạng... Khổ này chồng chất lên khổ kia.

Con người bị vọng thức diên đảo chấp trước, nên mới bị thất tình lục dục lôi cuốn, đắm nhiễm sáu trần, sanh tâm phân biệt có ta, có người, còn mất, khôn dại... Chính vì sự lầm chấp đó làm cho con người mau già, chóng chết.

Để cho thân tâm thanh tịnh khỏi khổ lụy vì danh, lợi, tình, tiền, của cải... Trong kinh Trung Bộ, Phật dạy các Tỳ kheo:
  • "Quá khứ không truy tìm
    Tương lai không ước vọng
    Quá khứ đã đoạn tận
    Tương lai lại chưa đến
    Chỉ có pháp hiện tại
    Tuệ quán chính là đây
    Không động, không rung chuyển
    Thấy các pháp vô thường
    Biết vậy nên tu tập
    Đêm ngày không mệt mỏi
    Xứng gọi nhất quả hiền
    ".
Thuở xưa, có một triết gia, túi không có một xu, thơ thẩn trong một miền núi đá, dân cư ở đây sống rất vất vả. Một hôm nhận thấy một đám đông quây quần chung quanh mình, trên một ngọn đồi, ông nói: "Đừng lo tới ngày mai, vì ngày mai chưa tới, chớ vội lo. Ta chỉ lo trong ngày hôm nay tôi cũng đủ khổ rồi". Những câu này được lưu truyền muôn thuở.

"Đời sống là một biến đổi không ngừng, chẳng khác nào dòng nước chảy trên sông, mỗi giây đều thay đổi. Quá khứ đã qua, tương lai còn bao phủ trong những biến dịch không ngừng. Như vậy chúng ta hãy yên ổn vui vẻ sống trong ngày hôm nay. Nếu để cho gánh nặng quá khứ và ngày mai đè thêm vào gánh nặng hôm nay thì người mạnh nhất cũng phải ngã quỵ".
  • "Ai kia sung sướng suốt đời
    Riêng tôi vui sống trong ngày mai thôi
    Ngày mai mặc kệ ngày mai
    Vì tôi đã sống hôm nay đủ rồi
    ".
    • Horace
Chúng ta nên lưu ý là đừng "lo" tới ngày mai chứ không phải đừng "nghĩ". Ta cứ cẩn thận suy nghĩ, dự tính sửa soạn tới ngày mai đi nhưng đừng lo lắng gì hết.

Trong cuộc sống, trước khi làm việc gì, phải khéo suy nghĩ về nhân quả rồi hành động một cách hữu ích, hợp đạo lý. Còn vụng suy nghĩ làm những chuyện phi đạo đức, vô ích để cho thần kinh căng thẳng, suy nhược và lãnh lấy hậu quả khổ đau.

Một trong những điều bi đát nhất là loài người có tánh buông bỏ đời sống hiện tại cho nên mới xảy ra biết bao cảnh âu sầu, khổ não, bệnh hoạn.

Bác sĩ Halodehabêm ở giảng đường Mayo nói: "Trong kỳ họp thường niên của các bác sĩ và những nhà giải phẩu cho biết, nguyên nhân sinh ra bệnh ung thư bao tử, đau tim, tiểu đường, đau răng, nhức đầu, phong thấp, trúng hàn, ung nhọt, ghẻ lát, mạch máu căng thẳng, mất ngủ mất ăn, đau thần kinh, loạn óc, tóc mau bạc và rụng, da mặt mau nhăn... Những bệnh đó đặc biệt thường xảy ra với người quá lo lắng, nghi ngờ, do dự, sợ sệt, đời sống gay go, ồn ào, nhộn nhịp quá, đau khổ trong hôn nhân, suy bại về tài chánh và tánh vô cùng ích kỷ, oán ghét, nóng nảy, chán chường, thất vọng, không thích nghi với hoàn cảnh được mất, tốt xấu, khổ vui, khen chê, vinh nhục, chua chát của đời. Họ cứ muốn sống cách biệt với mọi người chung quanh và tự giam mình trong một thế giới tưởng tượng... Đó là nguyên nhân sinh ra các thứ bệnh".

Lo lắng, ích kỷ, ganh ghét, sân giận, uất hận, sợ hãi, tuyệt vọng... khác nào những mũi kim đâm vào thần kinh, Nó dư sức làm cho ta hóa điên và tự tử.

Phải, chúng ta có những tư tưởng vui vẻ thì đời ta sung sướng, có những tư tưởng hắc ám thì đời ta khốn khổ, có những ý nghĩ sợ sệt ta sẽ sợ sệt, nghĩ đến thất bại thì chắc chắn sẽ thất bại.

Nếu ta cứ than thân trách phận thì mọi người ắt sẽ tránh xa. Nếu ta nghĩ dếnđau ốm, thì sẽ đau ốm.

Chẳng hạn như trường hợp của ông H.J. Englert bị nhiều chứng bệnh. Ông nói: "Tôi lo hết cái này đến cái nọ, thậm chí tôi lo cả ý nghĩ của người khác về tôi nữa. Tôi lo đến đổi thần kinh suy nhược, rối loạn tiêu hóa, thế là tôi bị đau bao tử, chữa rất nhiều thầy thuốc nhưng không hết. Rồi ít lâu sau lại sinh ra nhiều chứng bệnh khác. Áp lực quá nặng làm mạch máu tăng lên. Bác sĩ nói với tôi: "Áp lực ấy đã tới độ cao có thể mất mạng, cho nên tốt nhất là lo thu xếp việc nhà". Tôi về xem sổ sách và dặn vợ con, rồi cầu trời Phật tha thứ những lỗi lầm của mình, lúc nào cũng than thở rên la. Thế là tôi đã làm cho những người xung quanh tôi khổ sở. Vợ con khóc lóc, còn tôi vùi đầu vào cảnh tuyệt vọng. Sau một tuần than thở cho thân mình, tôi tự nhủ: "Mình phải cố gắng vui vẻ, có lẽ còn sống được một năm nữa sao không chịu hưởng cho vui hết đời, dại gì mà lo sợ để rồi chết trong âu sầu". Tôi ưởn ngực lên, mỉm cười rồi ráng hành động như người khỏe mạnh. Ban đầu còn hơi khó, song tôi gắng sức tỏ ra dễ dãi, vui vẻ kiếm việc làm. Nhờ vậy, vợ con tôi hết lo sợ và bệnh tình của tôi cũng thuyên giảm.

Tôi nhận thấy khỏe hơn. Bệnh tiếp tục giảm rồi không bao lâu hết hẳn. Nếu tôi nghĩ rằng thế nào cũng "chết" thì lời bác sĩ tiên đoán sẽ thành sự thật. Nhờ tôi thay đổi thái độ bi quan, lấy tinh thần phấn đấu để tự trị lấy căn bệnh của mình. Kể từ đó đến nay, tôi sống rất vui vẻ trong mọi hoàn cảnh".

Có nhiều người không làm chủ được bản thân, gặp cái gì cũng lo sợ, làm cho trí huệ mê mờ, thần kinh suy nhược sanh ra đủ thứ bệnh tật. Người nào không thắng được lo lắng sẽ dẫn đến hậu quả chết sớm.

Tại sao chúng ta lại điên dại như vậy! Lạ lùng thay cái chuỗi đời của ta khi còn con nít thì nói: "Ước gì tôi lớn thêm một vài tuổi nữa". Đến khi lớn lên vài tuổi rồi lại ước: "Ước gì tôi tới tuổi trưởng thành". Khi tới tuổi trưởng thành lại nói: "Ước gì tôi lập gia đình rồi ở riêng". Đến khi thành gia thất rồi thì lại ước lại thay đổi: "Ước gì tôi già được nghỉ ngơi..." Đến khi được nghỉ ngơi rồi lại thương tiếc quãng đời đã qua. Lúc ấy đã gần xuống lỗ rồi còn gì mà mơ ước. Khi đã biết được rằng, đời sống trong hiện tại, ở trong từng ngày một thì đã trễ quá rồi".

Ông Edwarards Evan gần như tự hủy đời ông cho tới khi ông học được rằng:" Đời sống ở trong hiện tại, ở trong từng ngày đang sống, trong từng giờ đang sống". Sinh ra trong một gia dình nghèo, ông giúp việc cho thư viện, để nuôi một gia đình bảy người. Lương ít mà không dám bỏ sở. Sau tám năm do dự, ông mượn của người bạn 550 Mỹ kim, ông làm ăn phát đạt. Mỗi năm kiếm được 20.000 Mỹ kim. Rồi ông cho người bạn vay một số tiền lớn, chẳng may người bận vỡ nợ, họa vô đơn chí, ngân hàng ông gởi tiền cũng phá sản. Sự nghiệp tiêu tan hết, ông còn mắc thêm món nợ 16.000 Mỹ kim nữa. Đau đớn quá, tinh thần suy sụp, ông nói: "Tôi ăn không được, ngủ không được sanh ra bệnh suy nhược thần kinh mà nguyên nhân chỉ là ưu phiền quá, chứ không có chi khác. Một hôm đang đi, tôi té xỉu trên lề đường, từ lúc đo không cất chân được nữa. Tôi phải nằm liệt giường, mụn mọc đầy mình. Nhức mỏi quá, nằm không được. Mỗi ngày một yếu, sau cùng bác sĩ nói tôi chỉ còn sống được hai tuần nữa thôi. Tôi sợ lắm viết di chúc rồi nằm chờ chết. Từ khi biết chắc sẽ rũ sạch nợ trần, ngủ li bì như một đứa bé. Hết lo thì tôi cũng hết mệt, ăn ngủ được nên lên cân.

Vài tuần sau, tôi đi làm lại. Trước kia kiếm được 20.000 Mỹ kim một năm, bây giờ mỗi tuần kiếm được 30 Mỹ kim mà tôi rất hài lòng".

Khi làm việc gì nếu lỡ hất bại, chúng ta phải bình tĩnh nhìn thẳng vào vấn đề để tìm ra nguyên nhân của nó, để cải thiện lại công việc. Vậy mà trên đời này có mấy ai làm được điều này, khi gặp chuyện khó khăn họ quay cuồng lo lắng để rồi tự làm hại cuộc đời mình, chỉ vì họ không chịu khó nhận ra sự chẳng may nhất tìm mức độ thiệt hại của nó tới đâu để cải thiện tình thế và cố vớt vát lại những vật chưa chìm trong khi con thuyền đắm. Đáng lẽ gầy dựng lại sự nghiệp, họ đâm ra gây lộn một cách kịch liệt, hay chua chát với số phận, khiến cho nhiều người mắc phải bệnh âu sầu, uất hận, chán đời, tuyệt vọng, chuyện đã xấu lại càng xấu hơn.
  • "Nguyên nhân, nghèo nghĩa là lo
    Nghèo tiền, nghèo bạc chẳng cho là nghèo
    ".
    • Ca dao
Sở dĩ con người ta khổ là do mong muốn trái lại với sự thật. Nhân đây tôi xin kể cho quý Phật tử nghe một câu chuyện hồi lúc còn sanh tiên, sư phụ của tôi là Hòa thượng Thích Giác Đức kể cho chư tăng nghe. Một hôm, có cô công chức đến tịnh xá lạy Phật xong rồi cô đến gặp thầy tôi than thở:

- Số phận con sao khổ quá sư ơi, con nghe nói đạo Phật có pháp cứu khổ, cứu nạn, vậy nhờ sư giúp cho con hết khổ.

- Cô khổ vì việc gỉ nói cho sư nghe thử coi.

- Thưa sư, con làm trưởng phòng nha Địa dư, bị ông giám đốc vô cớ cho con nghỉ việc, để đem thân nhân của ông ta vào. Một nỗi khổ nữa là trước khi ông ta đi làm việc là phải chạy xe ngang qua nhà con. Mỗi lần thấy ông ta là con vô cùng tức giận và khó chịu làm sao! Con ăn không được, ngủ không yên, sụt đến năm cân, sư có phép gì trị dùm con!

- Ông giám đốc đuổi cô là cô có lỗi, cô lại chấp cái lỗi của ông ta tự làm khổ cô, trong khi đó ông giám đốc có khổ không?

- Ông ta ăn ngủ ngon lành, nên mới có sức khỏe, ngày nào cũng chạy xe đi làm việc, còn con ăn ngủ không yên nên mới ốm như vầy.

- Từ khi cô nghỉ việc ở nha Địa dư đến nay cô có làm ăn gì được không?

- Con về nhà buôn bán, tiền lời gấp mười lần ở cơ quan.

- Người ta cho cô nghỉ việc để đi buôn bán làm giàu mà cô không vui. Trái lại lấy cái quấy của người ta làm khổ mình, đâu cô nghỉ lại coi có đúng không?

- Sư nói đúng quá sao con không hiểu ra, con thành thật cám ơn sư đã chỉ dạy.

Chuyện trên, cho chúng ta thấy cô trưởng phòng lúc nào cũng muốn cho ông giám đốc đừng bao giờ đuổi mình, nhưng ông ta lại đuổi. Điều đó làm cho cô khổ đau, cô khổ là vì cô không hiểu lý nhân duyên, nhân quả chấp nhận sự thật để vui vẻ sống với nó. Khi hiểu ra rồi cô hết khổ ngay.

Lại một hôm khác, thầy tôi kể tiếp một câu chuyện nữa, chuyện đó như thế này: "Nhân ngày rằm có một cô Phật tử đến tịnh xá vừa lạy Phật vừa khóc nức nở. Thầy tôi đến hỏi:

- Cô ơi tại sao cô lại khóc như thế?

- Thưa sư, chồng con lấy tiền rồi bỏ đi theo vợ bé, con khổ qua muốn tự tử chết khuất cho rồi.

- Cô ơ, cô có con cái gì không? Và chồng cô lấy tiền đi theo vợ bé, còn chừa lại cho cô đồng nào không?.

- Con có hai đứa con trai, chồng con lấy đi mười triệu để lại cho con hai chục triệu.

- Tôi xin hỏi cô, hai đứa con và hai chục triệu còn lại so với chồng cô và số tiền mười triệu mà anh ta đem đi, cái nào quí hơn?

- Hai đứa con của con và nhà cửa, tiền bạc còn lại quí hơn, chồng con và mười triệu làm sao mà bằng được!

- Cô thấy không, cô còn lại hai đứa con và nhà cửa, của cải, tiền bạc như thế tại sao cô không sống để nuôi con mà lại đòi tự tử chết đi, còn hai đứa con của cô để lại ai nuôi?

- Nhờ sư giảng mà con mới thấy rõ mình dại dột quá. Nếu không chắc con chết mất, đội ơn sư con làm phiền sư quá, mong sư hoan hỷ cho".

Có những chuyện mà không cần giải thích, chỉ hỏi cho người ta thấy được những điều sai của họ, thì tự nhiên họ tỉnh ra.

Người ta thường tả cảnh những vạc dầu sôi ở âm phủ thấy phải khiếp sợ, nhưng có ai tả cảnh những vạc dầu sôi thê thảm đang nung nấu những người quá ưu tư, lo lắng, âu sầu ở thế gian này.
  • "Tâm ta là một cõi riêng
    Nó là địa ngục, cõi Tiên trên đời
    Cảnh Tiên nhờ nó vui tươi
    Địa ngục vì nó thành nơi đọa đày.
    ".
    • Milton
Muốn hết khổ trong kinh Di Giáo, Phật dạy: "Tri túc thường lạc". Nghĩa là người biết đủ dù sống ở môi trường hay hoàn cảnh nào cũng được an vui.

Xưa kia, đức Phật còn trụ thế, đời sống của ngài rất đơn giản, tam y nhất bát, hàng ngày ôm bình bát đi khất thực, thường sống ở núi rừng, không bận tâm đến sự ăn mặc, chỗ ở, ngủ nghỉ... cho nên nội tâm rất an lạc. Còn chúng ta khổ là do lòng tham không biết đủ. Muốn cho thân tân an lạc, quý Phật tử nến cầu trời Phật cho mình đủ cơm no, áo ấm trong ngày mà thôi. Nếu lỡ làm ăn thất bại, đi xin cơm ăn như đức Phật, rồi tinh tấn tu hành có gì mà lo sợ làm chi cho héo mòn thân thể.

Trong luận Bảo Vương Tam Muội nói: "Lấy sự tác nghịch làm sự tác thành". Chính cái khổ đau cùng cực đó, nó cho chúng ta thấy rõ thân mạng là vô thường, vạn vật đều giả tạm, phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử khổ đau.

Xưa, thiền sư Vạn Hạnh giác ngộ được lẽ vô thường, ngài làm bài thơ:
  • "Thân như bóng chớp chiều tà
    Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời
    Sá chi suy thịnh cuộc đời
    Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành
    ".
Ngài nói thân này như điện, như bóng có rồi không. Cây cối mùa xuân thì tươi tốt xum xuê, đến mùa thu thì héo tàn. Mặc tình cho việc hưng thịnh hay suy vi, ngài không có vui buồn kinh sợ. Việc thịnh suy đối với ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ, nắng lên là tan hết. Thân như lằn chớp, xẹt qua rồi mất. Do thấy như vậy nên ngài an nhiên tự tại trong cuộc sống.

Nói chung nếu chúng ta muốn thắng lo âu, buồn phiền, thì đừng bao giờ phí công nghĩ đến chuyện đã qua, tin sâu lý nhân quả, chấp nhận sự thật vui chịu với nó, nhìn thẳng vào những thiệt hại coi tới mức độ nào rồi bình tĩnh thu thập các sự kiện, viết lên giấy những lo âu của mình để tìm ra nguyên nhân ở đâu, nỗi khó khăn ra sao, cách giải quyết thế nào là tốt nhất. Rồi hành động ngay, đừng do dự, lo lắng, quay trở lại, phải có lòng tự tin ngó về phía trước. Xăn tay áo lên cố gắng làm việc, máu sẽ lưu thông ta sẽ thấy thần kinh khoan khoái, yên ổn dễ chịu, sự dồi dào của nhựa sống chạy khắp cơ thể ta sẽ đuổi hết lo lắng ra khỏi đầu óc và vượt qua mọi trở ngại.

Trái lại, gặp nghịch cảnh, cứ ngồi không mà nghĩ vẩn vơ thì phiền não sẽ sinh ra, nó chẳng khác nào một bầy quỷ dữ đục khoét phá tan hết năng lực, hành động và ý chí của ta.
  • "Bể khổ mênh mông sóng ngút trời
    Khách tràn chèo một chiếc thuyền chơi
    Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
    Nhìn lại cùng trong bể khổ thôi
    ".
    • Đoàn Như Khuê
Nhìn thấy kiếp người đầy bể khổ nên cổ nhân than rằng:
  • "Vọng tâm khi được tịnh thanh
    Trí ngu đều có thể thành Phật Tiên
    Lắm kẻ rõ căn nguyên cội khổ
    Sao không lo hối ngộ tu thân
    Ấy vì vướng nặng nghiệp trần
    Nêu lòng không rảnh để gần Phật gia
    Muôn việc đến quan khâu là hết
    Nghèo giàu đều chung kết như nhau
    Uổng công lúc sống quơ quào
    Mạng chung tay chẳng nắm vào món chi
    ".
Cõi đời giả tạm như thế, vậy mà có mấy ai tỉnh tâm niệm Phật. Tối ngày cứ mãi vui cười, lo nghĩ chuyện thế gian. Người tu mà không tỉnh giác vẫn bị như thường.

Thuở xưa, đức Phật an trú tại Tịnh xá Kỷ Thọ nước Xá Vệ. Một hôm có bảy ông Bà la môn từ phương xa đến chỗ Phật đảnh lễ cầu xin xuất gia.

Đức Phật chấp nhận cho các ông xuống tóc làm Sa môn. Các ông này không lo tư duy về vô thường, chỉ lo cười đùa nói chuyện thế gian. Tâm trí các ông mê mờ, vô thường sắp đến mà chẳng ai biết lo tu.

Đức Phật biết mạng sống của bảy vị này sắp hết. Ngài thương xót đến bảo rằng: "Các ông học đạo nên cầu giải thoát, sao lại cười đùa lớn tiếng như vậy".

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ:
  • "Ngày đêm mạng lần giảm
    Có gì mà vui cười
    Nên tinh tấn kịp thời
    Đừng mê đọa tối tăm
    ".
Đức Phật thuyết xong, bảy vị Sa môn giác ngộ, không còn vọng tưởng, chứng quả A la hán. (Kinh Pháp Cú Thí Dụ).

Vô thường là một định luật chi phối tất cả vạn vật từ thân tâm cho đến hoàn cảnh không có cái gì tồn tại. Vô thường cũng là một vị thuốc thần diệu trị bệnh tham ái, làm cho thân tâm con người được bình tĩnh trước những cảnh ân ái, biệt ly, khổ vui, được mất, của cải vật chất, tình thương đều là giả tạm. Nhờ nghĩ như vậy, cho nên chúng ta dám hy sinh tài sản, thân mạng làm việc nghĩa, xa lìa những thú vui giả tạm, lúc nào cũng hướng tâm vào đạo để làm lợi ích cho tha nhân.

Như thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài Mục Kiền Liên ngồi thiền ở Thi Lâm, thấy có một con quỷ vừa đánh đập, vừa chửi mắng cái thi thể nói rằng: "Chính vì ngươi tham lam vô độ, cho nên hôm nay ta mới bị đọa đày làm quỷ đói khát như thế này".

Cũng gần đó có một vị thiên nhân vừa rải hoa lên thi thể và tán thán ca tụng: "Chính nhờ ngươi lúc sanh tiền, thân biết làm lành, khẩu nói lành, ý nghĩ lành, cho nên ta mới được sanh lên thiên giới. Vì thế hôm nay ta mới trở lại đây tán thán, rải hoa, tri ân, tưởng niệm".

Ngài Mục Kiền Liên chứng kiến cảnh đó, hôm sau đem chuyện ấy thuật lại cho đức Phật và tứ chúng nghe. Nhơn đó Phật dạy: "Tuy cái thân này vô thường giả tạm, nhưng mình biết lợi dụng nó làm việc lành, thời hiện tại thân tâm an lạc, người trí ngợi khen. Sau khi chết được sanh lên thiên giới thọ hưởng những thú vui thù thắng vi diệu. Còn nếu như mình tham đắm nó, mà gây ra ác nghiệp, thời hiện tại khổ đau, sau khi chết lại sanh vào cảnh khổ hơn".

Trong kinh Phật dạy: "Kiếp người ngắn ngủi, không biết chét lúc nào, ráng mà lo tu niệm, lợi dụng lúc còn mạnh khỏa, sáng suốt, nỗ lực lập công bồi đức làm hành trang trên con đường giải thoát. Vì trên cõi đời này, ai có thân đều phải chết. Nhưng người biết tu, khi bệnh thân họ vẫn bị đau nhức, còn nội tâm rất là an lạc. Vì nghĩ rằng trong đời mình không có làm việc gì ác, giống như chiếc áo đã cũ rồi đổi chiếc áo mới, thấy rõ được con đường mình đi vào cảnh giới an lành, cho nên họ ra đi một cách an nhiên tự tại.

Còn người không biết tu khi sắp chết, họ rất sợ, tâm thần rối loạn. Nào là thương vợ mến con, tiếc của, tứ chi đau nhức, rên la dẫy dụa. Bởi chẳng biết tu cho nên không kềm chế được cơn đau, tâm hồn tán loạn, trước mắt mịt mù u ám không biết về đâu, bao nhiêu nghiệp chướng hiện ra lôi kéo đi vào con đường ác. Giống như chiếc áo cũ rồi mà không có chiếc áo mới để thay, cái đó mới là đáng sợ".

Quán chiếu về tính chất vô thường của vũ trụ, nhân sinh, không phải tỏ ra thái độ bi quan yếm thế, mà chính là hướng dẫn ta có cái nhìn chính xác về sự thật của đời sống. Nhờ có cái nhìn rõ ràng và sáng suốt như vậy mà ta được an ổn, định tĩnh, không còn ưu tư dầu muộn, đau khổ nên tâ ta đạt được an lạc, giải thoát.

Phật thường khuyên bảo chúng ta phải hằng nghĩ đến cái thân này là vô thường, thì tự nhiên sự chấp ngã, tham, sân, si không còn, lòng từ bi nảy nở biết thương người, cứu vật. Sự tranh đấu giành giựt sát hại lẫn nhau không còn nữa. Có như vậy mới mong kiến tạo một thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc, giải thoát.

Quý Phật tử nên nhớ như vậy mà cố gắng tu hành. Trước khi dừng bút tôi không biết gì hơn, xin nhắc quý Phật tử:

"Phàm làm việc gì nên nhận hậu quả của nó về sau". Nếu nhận thấy làm việc nào phù hợp với đạo, đem lại sự an lạc, lơi ích cho mình và người cùng vật, thì cố gắng tích cực làm liền, chớ nên hẹn hò. Người xưa bảo tu là để chuẩn bị trước cho cái chết tốt đẹp, chớ để chết đến mà chẳng lo tu.

Cổ Đức thường khuyên:
  • "Đời người ngắn ngủi chớ mê say
    Ráng lo niệm Phật gấp đêm ngày
    Vô thường tấn tốc nào ai biết
    Chớ nên lần lựa hẹn ngày mai
    ".
Phàm không lo xa ắt có chuyện buồn giận, để nước tới lưng mới nhảy sao cho kịp.

Quý Phật tử là những người mến mộ Phật pháp, tôi xin nhắc nhở quý vị đôi điều, trợ duyên dìu dắt lẫn nhau đi vào ngôi nhà Phật pháp.

Tôi ước mong sao, quý Phật tử nương theo lời dạy của đức Phật mà tinh tấn tu hành để hiện tại thân, tâm được an lạc, đến lúc lâm chung thân an, niệm chánh, được Phật Di Đà cùng chư Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Quốc.
  • "Ta Bà khổ, Ta Bà lắm khổ
    Có bao người xét cho tột chỗ
    Tịnh Độ vui, Tịnh Độ nhàn vui
    Cảnh thanh bình sen báu nực mùi
    Nào ai rõ cái vui triệt đáo
    Cõi Tịnh Độ lắm điều thanh nhã
    Khổ, buồn rầu, lo sợ chẳng còn
    Chốn Ta Bà tim lụn, dầu mòn
    Thân tứ đại của người cũng thế
    Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ
    Đến tội rồi mới hối muộn màng
    Chi cho bằng ta sớm lo toan
    Gìn giới luật, nghe kinh, trọng Phật
    Đến lâm chung quả lành đâu mất
    Cảnh Tây phương chư Phật đợi chờ
    Việc tu thân thiện tín hẫng hờ
    Chừng họa đến e cho khó tránh
    Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh
    Ráng phụng hành kẻo phụ Phật xưa
    Chí nhứt tâm tín, nguyện phụng hành
    Được cứu cánh nơi an dưỡng
    Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng
    Dứt mê đồ thoát cuộc luân hồi
    Ao sen báu Tây phương đua nở
    Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm.
    ".
    • Cổ Đức
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VÔ THƯỜNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

    • 1. THÂN
    Thân này chưa biết ra chi
    Của kia lại có chắc gì mà ham
    Bao nhiêu cho thỏa lòng tham
    Càng thâu càng đắm, càng làm càng say
    Tiếc cho tháng rộng năm dài
    Chung qui hoang phí về tay đồng tiền
    Được thua, thua được liền liền
    Hả hê mới đó, ưu phiền đâu đây
    Đem thân làm kẻ tội đày
    Cho bao vật chất nó cai trị mình
    Đem tâm làm vật hy sinh
    Suốt đời theo lịnh dục tình dắt lôi
    Cái tham bao thuở cho rồi
    Cái không may đến một hồi là xong
    Dã tràng xe cát biển Đông
    Vô tình lượn sóng cướp công nhọc nhằn
    Tuồng đời ai biết cho chăng?
    Như mây tan hiệp, như trăng khuyết tròn
    Đêm tàn tim lụn, dầu mòn
    Cái đi mờ mịt, cái còn mỏng manh
    Chắc chi bọt nước đầu ghành
    Chắc chi sương đọng trên cành ban mai
    Bọt kia làn gió nhẹ lay
    Sương kia mặt nhựt chiếu ngay xong đời
    Mênh mông trong khoảng đất trời
    Thân ta biết gởi về nơi chốn nào?
    Tử thần tay dắt làm sao?
    Gần xa mấy nẻo, thấp cao mấy từng?
    Và như phước thưởng, tội trừng
    Biết công hay nợ, biết mừng hay lo?
    Thử theo công hóa mà so
    Tội dồn muôn kiếp biết to thế nào?
    Phước gom nghĩ được là bao?
    Nếu đem trừ cấn, biết sao thiếu thừa?
    Dặc dài kiếp cũ, căn xưa
    Biết bao oan nợ mà chưa trả đền?
    Tiền cừu, hậu hận há quên
    Một bên đi trả, một bên đến đòi
    Lung tung trong cạm luân hồi
    Vay qua trả lại, biết đời nào ra?
    Mấy ai suy kỹ, nghĩ xa
    Rảo chân sấn bước cho qua khoảng này
    Chán chê mộng cảnh đọa đày
    Đưa tay trí huệ tháo dây dục tình
    Đoạn trừ cái hoặc vô minh
    Tâm chơn trở lại, tánh linh đem về
    Gieo lan hột giống Bồ đề
    Xinh tươi nhành lá, xum xuê cội tàng
    Nước dương rưới khắp trần hoàn
    Diệt trừ phiền não, tiêu tan tội tình
    Gay chèo thuyền giác độ sinh
    Bến mê phúc chốc biếc thành ao sen.
    • 2. KHẨU
    Trăm năm vật đổi, người dời
    Một câu quí giá muôn đời còn ghi
    Mở lời trước phải xét suy
    Rằng ta cất tiếng, ích chi chăng là?
    Bằng như lời ấy thốt ra
    Làm buồn kẻ khác thì ta xin đừng
    Nói chi mắng nhiếc tưng bừng
    Miệng xây núi nghiệp biết chừng nào tan
    Nói chi chửi rủa kêu vang
    Lưỡi đào hố nghiệp, biết đàng nào lên
    Họa tai vì miệng mà nên
    Bệnh căn vì miệng, mà rên phù trầm
    Ai ôi nghĩ lại kẻo lầm
    Đóng bưng cửa miệng, chớ tầm quỷ ma
    Cũng thời tiếng nói thốt ra
    Của chư Phật Thánh, dịu hòa biết bao
    Là câu nói pháp thanh tao
    Đưa người giữa biển, sóng xao lên bờ
    Ôi lời nói, quí không ngờ
    Đương phàm hóa Thánh một giờ đổi thay
    Ta nay học đạo Như Lai
    Hãy dùng lời nói, mở bày pháp môn!
    Ta nên cất tiếng ôn tồn
    Phá ta những giấc mộng hồn tối đen
    Miệng ta là cánh hoa sen
    Một khi hé nở, một phen thơm lừng
    Tiếng ta là gió mùa Xuân
    Một cơn thổi nhẹ, muôn dân mát lòng.
    • 3. Ý
    Con người, cái ý vốn hai
    Khi mừng, khi giận đổi thay khôn lường
    Vội vàng khi ghét, khi thương
    Khi vui vui ngất, khi buồn buồn hiu!
    Muốn ưa tạo sắm đủ điều
    Rồi khi chê chán bỏ liều chẳng chơi
    Pháp nương tương đối không rời
    Do hai lẽ ấy, ý đời phát sanh
    Dẫy đầy ngoại cảnh chung quanh
    Càng nuôi tạo ý trưởng thành thêm lên
    Thói đời càng nhiễm càng quen
    Bụi đời càng đắm càng đen tinh thần
    Nhiều năm chung lộn trong trần
    Ý mình còn giữ riêng phần được đâu?
    Chịu mang ảnh hưởng từ lâu
    Ý căn thôi đã ăn sâu lắm rồi
    Nếu ai nhận ý là tôi
    Tức thì bị ý cuốn lôi luân trầm
    Dắt đi theo nẻo lạc lầm
    Đọa chìm trong cõi tối tăm mịt mờ!
    Nghiệp nhân tội quả bao ngờ
    Biết chi phương hướng bến bờ là đâu!
    Lướt theo ý dục mong cầu
    Đèo cao băng vượt, biển sâu lao mình!
    Con đường sinh tử, tử sinh
    Ra vào lui tới thân hình đổi thay
    Luân hồi trong cõi trần ai
    Cũng vì cái ý chuyển lay không ngừng
    Lên cao, xuống thấp vô chừng
    Cũng vì cái ý lẫy lừng buông lung
    Ý năng chế ngự oai hùng
    Người người răm rắp phục tùng vâng theo
    Nguồn đời nước chảy thuận chiều
    Cảm thương cái bọt riu riu xuôi dòng!
    Mấy ai cưỡng ý, nén lòng
    Vượt nguồn dục vọng, thoát vòng muốn ham
    Tịnh tâm bớt nói, ngưng làm
    Lần lần nhập Thánh, siêu phàm từ đây
    Đừng lòng cố chấp riêng tây
    Cũng đừng tính có ý này, ý kia
    Ta, người đừng tính phân chia
    Có, không đừng tính đoạn lìa hai bên
    Như thường, như vậy, như nhiên
    Như như chẳng động không thiên, không dời
    Sự duyên thì đạo khác đời
    Lý chơn đời đạo không rời, không xa
    Chấp không, chấp có rầy rà
    Đến khi vô chấp mới hòa thuận nhau
    Sao sao thôi cũng là sao
    Sự chi cũng vậy, thế nào cũng xong!
    Tâm không, vạn sự đều không
    Tâm chơn vạn pháp thảy đồng quy chơn
    Học đòi theo bậc thánh nhơn
    Phải trừ tâm vọng mới hoàn bổn nguyên
    Vọng tâm là ý tư riêng
    Thất tình, lục dục một tên khác gì
    Thường nên kiểm soát hành vi
    Khi ăn, lúc nói, đứng, đi, ngồi, nằm
    Đừng cho vọng ý phóng tâm
    Phải nhờ giới luật buộc cầm khít khao
    Tuy không thấy ý chỗ nào
    Nhưng khi động tác ý lao ra ngoài
    Nếu ai thiền định hoài hoài
    Ấy là ý mã bị cai trị rồi
    Bằng ai giải đãi buông trôi
    Trách sao ý mã chẳng lôi xa đường
    Vậy nên hãy ráng kềm cương
    Giờ giờ, phút phút phải thường soi tâm
    Lặng lờ giữ vẻ trầm ngâm
    Tánh dè dặt kín, nết đằm thắm nghiêm
    Luôn luôn đôi mắt phải kềm
    Đừng hay nhìn liếc, kiếm tìm chi chi...
    Ngó ngay xuống bước chân đi
    Ngó vào tâm trí luôn khi không rời!
    Lỗ tai phải để thảnh thơi
    Chớ ham nghe ngóng tiếng lời ai ai
    Nghe kinh, nghe pháp, nghe bài
    Nghe vào tâm trí đặng hay sửa mình
    Mũi thường phải ngửi mùi thanh
    Ấy mùi đạo lý thơm lành hương đưa
    Ngửi lâu càng mến, càng ưa
    Ngửi vào tâm trí để ngừa nhiễm ô!
    Lưỡi dầu phải nếm vị thô
    Cũng đừng chê trách, thích đồ cao lương
    Nếm là nếm vị chơn thường
    Nếm bằng tâm trí tỏ tường nghiệm suy
    Thân như xúc đối thức chi
    Tay chân kềm chế trong khi đụng, sờ
    Sờ thiên lý, nắm huyền cơ
    Sờ chừng tâm trí xem hờ kẻo quên
    Ý đừng vọng tưởng rối ren
    Thường năng quán xét nhân duyên tao phùng
    Tưởng suy tham cứu tột cùng
    Tưởng gom tâm trí tập trung điều lành!
    Phàm trong sự thể tu hành
    Đừng buông cái ý tung hoành tự do
    Bước đầu bổn phận làm trò
    Cả thân tâm trí dâng cho người thầy
    Mặc người uốn nắn chuyển xoay
    Đặng mình diệt hẳn riêng tây ý xằng
    Sống chung giáo hội chư Tăng
    Không còn tư ý mới năng thuận hòa
    Đừng làm trái ý người ta
    Cũng đừng tự ý kiêu sa của mình
    Mới mong thật hiện hòa bình
    Nhờ nơi giáo pháp, chương trình in khuôn
    Chẳng ai ý lộng tâm buông
    Mỗi người nắn đúc tròn vuông thành phần.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách