VÔ TÁNH, TỰ TÁNH
(Trích Đại Thừa Yếu Lược, Liên Hoa Tịnh Huệ, trang 110-112)
Các kinh Phật thường sử dụng qua lại hai danh từ Vô Tánh và Tự Tánh để chỉ Phật Tánh. Trong một vài trường hợp hết sức đặc biệt, danh từ Vô Tánh lại được sử dụng để đối trị Tự Tánh. Để làm sáng tỏ vấn đề, chúng ta thử phân tách ý nghĩa của hai danh từ nói trên:(Trích Đại Thừa Yếu Lược, Liên Hoa Tịnh Huệ, trang 110-112)
Tự Tánh là tánh của chủ thể, là bản tánh, có sẵn từ vô thỉ đến giờ, không chuyển biến, không thay đổi, không bị chi phối bởi không gian và thời gian, không bị ảnh hưởng bởi lý nhân duyên. Tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà có và cũng do nhân duyên ly tan mà diệt, vì thế mới nói các pháp không có tự tánh. Lục căn cũng không có tự tánh. Nếu nhãn có tánh thấy thì cái thấy ấy phải thường hằng, không thể nào có lúc thấy, có lúc không thấy. Tứ đại (đất, nước, gió, lửa) cũng không có tự tánh, vì tánh của chúng luôn luôn biến chuyển, Như hỏa đại, khi ở trong nước nóng thì có tánh nước, ở trong gió nóng thì có tánh động, ở trong lửa thì có tánh nóng, ở trong đất nóng thì có tánh cứng. Khi đức Phật giảng dạy về Tội và Sám Hối, ngài nói: "Tội tánh bổn không, do Tâm tạo. Tâm nhược diệt thời tội diệt vong", nghĩa là: "Bổn tánh của tội là Không, do tâm tạo. Nếu tâm dứt thì tội cũng hết". Khi ngài dạy như thế, ngài xác nhận ngược lại rằng tất cả các pháp đều có tự tánh, bổn tánh vì đều do Chơn Tâm tạo. Tánh của các pháp là tánh Không, còn gọi là Vô tánh, Không Tánh. Tham, sân, si, phiền não tất cả đều có tự tánh, bổn tánh, vô tánh, Không tánh, Phật tánh, thực tánh. Vì thế mới nói, phiền não tức là Bồ đề, sanh tử tức là Niết bàn, động tức là tịnh, tội tức là phước. Nói tóm lại, Tự Tánh và Vô Tánh đồng một nghĩa, đó là nghĩa Phật tánh, nghĩa Không. Cả hai danh từ được sử dụng qua lại không phân biệt trong kinh Phật.
Tuy vậy, Vô Tánh có khi được sử dụng để đối trị Tự Tánh. Như Duy Thức học phân tách Tâm chúng sanh thành ba tự tánh: Biến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên Thành Thật. Để dứt trừ cái bệnh của người tu chấp có ba Tự tánh, đức Phật mật ý nói có ba Vô tánh nhằm đối trị từng cái một, đó là: Tướng Vô Tánh, Tự nhiên Vô Tánh, Thắng nghĩa Vô Tánh.
Cũng như trong mười tám pháp Không ở phần trước, chúng ta thấy có Vô Tánh Không, giống như nội, ngoại không. Như thế thì giữa hai danh từ này phải có một sự khác biệt gì đó dù rằng vi tế.
Theo thiển kiến, Tự Tánh có tánh cách xác định, xác định sự hiện hữu của nó từ vô thỉ, tự nó đã có sẵn, không phải do một động lực nào ở bên ngoài tạo ra nó. Trong khi đó, Vô Tánh không hàm súc một ý nghĩa tạo lập nào cả, chỉ nói lên cái nghĩa Không trong bản chất mà thôi. Vô Tánh hoàn toàn giống như Không tánh.
Vô Tánh thuộc về Không, Tự Tánh thuộc về Có. Cả hai đều đồng một nghĩa Không, nhưng Không của Vô Tánh là Không mà Không, còn Không của Tự Tánh là Có mà Không. Vì thế mới có cái Không Trung Đạo của Vô Tánh, Tự Tánh vậy.