Cốt yếu của tu Phật, là phá chấp để giác ngộ chân lý.
Có phát dại huệ, Thiền mới vào chánh định. Có đại huệ, bố thí mới không là làm phước, trì giới mới không là lao tù, ngoại đạo...
Cái biết không thông suốt không phải là cái tai hại. Cái tai hại là sự cố giữ cái biết hoàn hảo ấy, không tìm tiến bộ, học hỏi mở mang... Trong ví dụ: "Người mù sờ voi". Sự không thấy toàn vẹn con voi không phải là cái nguy. Mà cái nguy là nhất quyết bênh vực sự quan sát của mình là duy nhất, là đúng đắn hơn cả, để đi đến sự cãi vả, đánh nhau.
Nếu sau khi quan sát (sờ, mó) voi, những người mù kia đều nói rằng: "Theo tôi, tôi quan sát được như vậy không biết có gì còn sót nữa chẳng? Mong được phục chỉnh, vì tôi nghe bảo thì con voi là con vật to lớn mà sự quan sát của tôi vốn nhỏ hẹp..." thì chắc vừa tránh được sự cãi vả, đánh nhau, đau đớn cả làng, vừa góp nhặt được sự hiểu biết rải rác của từng người, để tất cả được một ý niệm chính xác, hoàn hảo, toàn vẹn hơn về con voi.
Chẳng khác nào những kẻ đánh bạc khi khôn lớn, bước chân vào đời, con người đánh bạc với đời. Đến khi cuộc cờ tan, đi vào lòng đất mới tự tỉnh - Là kẻ tu hành, không lẽ ta lại đánh cuộc với vọng tưởng, để đến khi buông tay nhắm mắt, lại nhờ kẻ chẳng siêu, cầu siêu cho mình, trong khi đạo Phật đem đến cho ta sự giải thoát mãi mãi.
Đối với Tiên đạo hữu tướng, cứ y theo phương pháp hữu tướng cố công bỏ trược, tìm thanh, cho đến khi có thần thông là đủ. Do đấy, với đạo Tiên, không có vấn đề chấp và phá chấp.
Trong đạo Phật, kẻ tu theo thiền môn phàm phu, khi trải qua 55 cảnh giới (Kinh Lăng Nghiêm) vì chấp mà có khi đọa địa ngục (các môn phái khác lại cũng như vậy!), sử sách còn ghi lại lắm trường hợp các vị Tổ hồi hận, bỏ cả công năng cũng chỉ vì chấp nhất!
Phật dạy: "Phải tự thắp đuốc lên mà đi...", ta phải tự soi sáng lên. Ta soi sáng không có nghĩa là ngồi một mình mà hiểu biết đủ. Có trải qua việc đời mới thêm một kinh nghiệm, khi qua một dòng pháp, mới mở được một tia trí tuệ. Theo Phật thừa, chúng ta phải lần lượt suốt thông vạn pháp, thế thì công năng vô biên, không có chỗ dừng và đáng dừng khi tự mình vẫn còn băn khoăn. Hãy tìm hiểu xem xét, hãy thực nghiệm, cần tiến bộ để luôn luôn được tiến bộ.
Đem ra bàn luận, mổ xẻ từng vấn đề một, không phải để chê khen, mà là để thông cảm, đả thông, chớ đắm vào tướng, mắc vào danh. Hãy làm từ bực này đến bực khác...
Biết mà làm, là không phải rằng chấp, mà tùy duyên.
Không biết mà làm, là vọng hành, không phải là phương tiện.
Pháp chấp từng bực là tùy trình độ, hành vi, song hướng tâm phải là hoàn toàn thông suốt.
Người nguyện tu hành phải triệt để phá chấp, đó là người tu mong thấy Phật tự Tâm vậy.
Ngoài những cái chấp tổng quát nói trên, người phát tâm tin Phật thường còn vấp phải những cái chấp thông thường do thói tục như sau:
1.
Chấp về nghiệp lực:
Có người nghĩ: "Ta đầy dẫy nghiệp chướng, biết tu có thành đạo được chăng?"
Phật thuyết: "Cái mê vốn huyễn tướng, vì chấp cái mê ấy nên chúng sinh đau khổ, trở ngại...".
Theo con đường Đại thừa của Phật, phương tiện tận độ chúng sinh nhất định đi đến kết quả không sai chạy, vì không chấp cái "ngã tướng" của chúng sinh, ấy mới thật là rốt ráo. Ấy mới thật là cứu độ chúng sinh.
Song trên đường giải thoát, có kẻ trước, người sau. Như ông A Nan dù với đời là em Phật, đã theo Phật ngay từ giờ phút đầu của 49 năm thuyết pháp, dù công năng suốt ngày, suốt tháng, mà khi Phật nhập diệt ông vẫn chưa được giải thoát.
Ta chớ nên bôn chôn, cũng không nên giải đãi. Hãy tin vào phương pháp vô thượng của Phật, bắt tay vào việc với cả ý chí quyết làm, quyết được, tất được.
Theo Phật pháp, vì không có thực tướng nên vô minh không thể ngăn ngại, mà chỉ có cá nhân tự đặt chướng ngại cho mình. Nhưng thật ra, điều trên này chỉ hiện rõ lần theo nhịp tinh tấn của hành giả, để đi đến cái hoàn mỹ khi giác ngộ chân lý, thấy được nguyên tánh vũ trụ. Duy chỉ bậc giác ngộ mới hiểu tường tận, nắm chắc phương pháp giải thoát một cách xác thật không lầm lẫn. Còn phàm nhân, còn tu dù tài giỏi như Tiên, Thần cũng chẳng thể tự mình cứu mình giải thoát bằng cách này hay bằng cách nọ, đừng vội nói đến sự giúp kẻ khác, hướng dẫn kẻ khác.
2.
Chấp về sự độ của chư Phật:
Có người nghĩ: "Phật là bậc đầy đủ phương tiện viên mãn độ sinh, đủ phước đức, đủ tài trí. Nếu gặp Phật thì liền được độ giải thoát. Phật chỉ nói đôi câu, dùng vái phép tắc, là liền giác ngộ".
Thật vậy, thật ở chỗ Phật đủ phương tiện, dủ tài trí, phước đức song viên mãn độ sinh là thế nào, ta không thế nào suy đoán mà biết được. Có kẻ gặp Phật chưa hẳn theo Phật, có người nghe Phật chưa chắc đã được giác ngộ, vì làm sao họ biết được Phật mà bảo rằng gặp, rằng nghe, gặp là gặp thế nào, nghe là nghe làm sao? Vả lại, Phật không độ định nghiệp, không độ vô duyên.
Nếu độ định nghiệp, sao Phật không cứu năm trăm người dòng họ Thích để cho cả bọn phải chết về tay vua Lưu Ly?
Nếu độ vô duyên, sao trong thời gian Phật thuyết pháp lại có ngoại đạo phỉ báng, tìm cách ám sát ngài? Phật phải tốn thì giờ mệt nhọc, thuyết pháp hằng mấy mươi năm và tỉ mỉ cho từng đệ tử.
Phật cũng không dùng phép tắc độ ai được. Nếu dùng phép tắc thi tài đã không mất công, hao hơi tắt tiếng, và đã hẳn truyền cho chư Tổ, cho phép chư Tổ dùng thần thông độ sinh khỏi phải giảng dạy, vỗ về phiền phức.
Vì chấp nhất như vậy nên thời kỳ Bố Đại Hòa thượng (hiện thân của đức Phật Di Lặc) ra đời ở Trung Hoa, không ai theo tạo duyên lành, thật là uổng!
Đời nay thấy nhiều người tin Phật, muốn tu, trông gặp Phật là tu ngay, dù phải hy sinh những gì cũng được. Nhưng không hiểu những người này đã quan niệm ông Phật như thế nào, để khi gặp thì biết được đấy là Phật. Chỉ sợ rằng vì không biết phục thiện, không bỏ những chấp nhất, khi gặp Phật những người này còn có thể phỉ báng hay tìm cách phá hoại chánh pháp nữa là khác.
Nghiệp khó vậy thay!
Trái lại với các điều kiện trên, có những bậc quyết tâm tu hành (đời gọi là chân tu), giỏi lý thuyết suông, khư khư tự mãn ôm cái phương tiện độc nhất vô nhị của họ là "làm lành lánh dữ", vì họ chưa hề đắc nhập chân lý Phật. Ta có thể xem như những nhà hiền triết (tức vẫn còn dính mắc trong lục đạo) không hơn không kém.
Những kẻ tăng thượng mạn tự dối mình và dối mọi người, lại vọng ngữ đến độ cho rằng trong hiện kiếp không có một phương pháp nào đưa đến giải thoát được. Họ không khi nào tự nghĩ để tự nhận được rằng mình đang còn mê lầm, còn phải tìm thầy dẫn dắt. Họ đang bị ru ngủ do cái "suy tôn" cuồng tín của những kẻ chung quanh.
Cơn mộng triền miên đắm họ vào cái say sưa đến quên Đạo, quên tìm Đạo cho chính mình, lại đèo bòng dẫn dắt cho kẻ khác, dựng nên cái cảnh "tu đui, mù luyện", kẻ mù dẫn người đui mãi mãi quanh quẩn trong luần hồi sinh tử.
3.
Chấp "chỉ học nhiều kinh", "chỉ làm thật nhiều":
Có người nghĩ: "Ta phải học thuộc nhiều kinh". Lại cũng có người nghĩ: "Ta phải làm cho thật nhiều để đạt kết quả". Không học, không hiểu mà làm, thì mắc vào kiến chấp. Nhưng cũng khó lấy kinh, sách tự học mà suốt thông đến vạn pháp, vì vạn pháp vũ trụ quá bao la. Vả lại sau 49 năm thuyết pháp, Phật cho một quan niệm về kinh điển: "Từ trước đến nay ta chẳng nói một lời nào cả". Điều này chứng tỏ ngài muốn chúng sinh sau này đừng cố chấp vào kinh điển.
Triết lý Phật thì khác, mà chân lý Phật lại là khác. Cho nên kẻ không thực hành mà chỉ lý thuyết suống; tất cũng không được gì cả. Kinh sách không phải để học thuộc lòng, thuộc nhiều rồi lại nói như con chim két học nói. Nếu học kinh, sách, tra cứu triết lý, điển tích thật nhiều "xuất ngoại đi tìm chân lý mà thành đạo được" thì chỉ có những người có thì giờ rổi rảnh, biết chữ nhiều, họ cứ cố học thật nhiều là thành đạo, thế có gì khó mà gọi là chân lý siêu việt, không thể nghĩ bàn. Và thế gian này thiếu gì Phật, Thánh, mà hiện tại trái lại ta không thấy có ai nhờ học nhiều để được đạo lý gì cả (kể cả đạo Nho, đạo Tiên cũng không hiểu được, huống hồ là của đạo Phật).
"Phải làm thật nhiều" là làm cái gì thuộc Phật pháp, cái gì để giải thoát sinh tử luân hồi. Trong ấy ở mỗi pháp môn, có một điểm chính yếu chứ không phải hẳn là làm tất cả, những điều phước đức thế gian, hay những hình sắc thế gian thường ưa chuộng, việc làm (tu) của Phật hẳn không phải mắc vào phương tiện mà phương tiện chỉ là cái để theo tạm thời được rồi bỏ, của mỗi pháp môn. Thế nên, dù ở trong hoàn cảnh nào của đời, người ta vẫn đều tu Phật được.
4.
Chấp về pháp môn, đường lối và trung thành với tín điều:
Có người nghĩ: "Tu Phật phải theo một môn pháp, đường lối, phải trung thành và giữ gìn chặt chẽ các tín điều".
Phật là gì? Kinh nói: "Như lai giả thị chư pháp như nghĩa" (Phật là cái nghĩa tận cùng của các pháp), tu Phật là vào các pháp để tìm cái nghĩa tận cùng của nó, để đắc nhập nó, và khi đắc nhập được, ta là Phật vậy. Phật không riêng môn phái, không có một hình thức gì nhất định.
Sự hiểu biết lại cũng như thế, từng thời gian tiến bộ, sẽ đổi thay. Hình thức cũng thế, tùy phương tiện mà thay đổi theo thời gian nhưng dù thay đổi thế nào cũng phải nằm trong cái nghĩa của bốn yếu lý, và phải ở trong cái chiều hướng giải thoát.
Trí tuệ mở thông hình thức phải thay đổi. Dùng phương tiện để đạt mục đích, là tất nhiên mục đích không được mắc vào một phương tiện nào cả.
Ví dụ: người mới tu Phật, phải dạy cho họ lễ Phật, thờ tượng, tụng kinh... để gieo và giữ lòng tin, rồi sẽ đi lần vào phương tiện khác.
Lạy Phật, thờ tượng không phải là để giác ngộ. Lúc đầu dùng hình thức phương tiện này không hại, nhưng nếu mãi sau vẫn khư khư như vậy mà làm, tất đã lấy phương tiện làm mục đích, mắc vào vòng mê tín, ỷ lại thần quyền rồi vậy.
Phật đưa ra lý nhân quả luân hồi, đó là triết lý thực tế phải thực hành, theo đó để thấy kết quả. Nhận lẽ phải ấy, ta cố làm, càng làm càng thêm nhập và trung thành với cái lẽ phải ấy, để cuối cùng đến đích: Hạnh phúc tức đắc chân lý.
Trong phương tiện đầu thấy chậm, ta có thể bỏ mà tìm làm cái mau hơn. Nếu thấy cái làm này không hợp, không được, ta hẳn làm cái khác, và với cái nào, ta cũng phải luôn luôn nhớ trung thành với mục đích: Thoát sinh tử luân hồi.
Phật chỉ bày những đường đến đich, và Phật chỉ bày vẽ để ta tự thắp đuốc lên mà đi, chứ Phật không đặt những luật lệ nhất thiết bất di bất dich phải theo như ngoại đạo, và Phật không thưởng không phạt ai cả; đó là cái quan niệm thô sơ nhất mà cũng là rất đúng đắn của một người tin tu Phật.
Có kẻ làm y kinh và trung thành với môn phái hay ông thầy. Ta hãy nhớ lại câu: "Y kinh liễu nghĩa bất y kinh vị liễu nghĩa" (theo kinh rốt nghĩa, đừng theo kinh chưa thật nghĩa). Ta cũng nên nhớ những câu: "Y pháp bất y nhân" (theo Phật pháp chứ không phải theo người nói Phật pháp, theo cái tướng tứ đại, theo cảm tính phàm tục...). "Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan" (Giảng nghĩa y kinh, y danh từ kinh, ba đời Phật bị oan).
Ngoài ra có những kinh rốt nghĩa, như kinh Pháp Hoa. Trong ấy, Phật nói: "Ta nói kinh này để độ bậc Bồ tát..." Với một câu của Pháp Hoa, hàng ngàn vị Bích Chi tụ họp nghĩ bàn hàng nghìn năm, chưa thể thấu đạt ý nghĩa. Đời nay có kẻ biết chữ, xem kinh rồi tự xưng hiểu tất cả kinh, dành phần hiểu nông cạn ấy để làm càn, dành lẽ phải mê lầm ấy cho riêng môn pháp mình, thật là nguy hại cho người tu Phật lắm lắm.
5.
Chấp sự "Chỉ làm theo một hạnh", "thần thông":
Có người nghĩ: "Tu phải theo cách kia, cách nọ. Hành phải làm thế này, thế khác".
Đó là lầm về Hạnh.
Phật pháp không theo một đường lối nhất định. Thời gian không phải chỉ là Chánh, Tượng pháp có chư Tổ tương truyền. Nếu tu một pháp (cố chấp luật lệ, phong tục) làm một lối duy nhất thì Phật nói làm gì cho nhiều pháp môn, chư Bồ tát lại làm vạn hạnh?
Tu Phật phải nhớ yếu điểm: "đã là Tâm (chân lý) thì không mắc vào pháp" (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Nếu thấy có ta, có tu thì chẳng bao giờ có Tâm như như bất động.
Mắc vào các pháp còn không thể y vào đó mà tìm tâm cho được, huống hồ mắc vào các hạnh tức chấp nhất trên những phương tiện thiện xão, vô lượng điệu dụng của chư giác ngộ, thì làm sao lãnh hội được ý thức tu hành.
Có người nghĩ: "Phải tìm cho được bậc thần thông tài giỏi, vì Phật thần thông quảng đại. Nên theo vị ấy tu hành phá chấp".
Thạt rất giản dị, nhưng cũng vô cùng ngụy tạo.
Hiện nay, đa số chắc rằng không vì tìm chân lý mà phát tâm tu Phật. Họ tu hành vì mong thấy thần thông, do cái tánh sẵn có ỷ lại, nhờ vã, lợi lộc và sẵn cái tánh ủy mị, khuất phục uy quyền. Đó là bản tánh của những kẻ ươn hèn rất dễ xu phụ theo Tiên, Thần, Ma, Quỷ. Thái độ, tác phong của họ phản lại họ, vì thật ra chính họ, họ cũng hiểu biết rằng: Cũng có thần thông như Phật, ngoại đạo hay dùng thần thông để bịp đời!
Theo Phật là theo với chân lý, tự tạo duyên hướng Vô thượng Bồ đề, thu phục phàm tâm để đắc giải thoát. Dù có ai giúp hoặc tự ta có thần thông, cũng không ích lợi gì cho con đường giải thoát của ta. Mà đó chỉ là tạm thỏa mãn, nhưng cũng dễ gây thêm nghiệp chướng trở ngại cho con đường giải thoát. Mỗi người đã tự có một nhân quả hiển nhiên, muốn an lạc vĩnh viễn chỉ có một lối duy nhất là cái giải thoát của Phật, chứ không phải cái thần thông mắc níu nặng trong mê lầm.
Không có gì mạnh bằng sức mạnh của vũ trụ (tức là luật nhân quả). Thiên tiên, thường nhân, súc sanh cũng ngang nhau trước cái sức mạnh ấy. Không có thần thông như con người, con vật cũng chết, mà có thần thông biến hóa vô vàn như Tiên, như Thần rồi cũng chết, mà có thể chết đau đớn hơn. Trong lục đạo không ai trốn được.
Thật ra có đầy đủ phương tiện, người truyền đạo đỡ bớt nhọc nhằn chứ không thể giúp cho kẻ tu hành mau giải thoát được. Ngoài sự cố gắng, quyết tâm cứu người tu, sự giải thoát còn tùy thuộc vào thời gian điệu dụng pháp độ của chư giác ngộ nữa.
Có thần thông là một chuyện, suốt thông vũ trụ là một chuyện khác. Chư Phật cấm dùng thần thông, ít dùng thần thông, vì không muốn chúng sinh đã say mê lại càng say mê theo cái tạm bợ đến phải quên mục đích cao siêu. Kẻ truyền đạo không dùng thần thông vì họ vào đời không phải để du hí (dạo chơi), có dùng hay không có dùng, lúc nào dùng còn tùy nơi sự chuyển biến của vũ trụ.
Phật luôn luôn nêu gương đức hạnh, môn giải thoát (sắc, không) và thực hành, ấy là đúng chân lý. Ngài dạy ta như thế, khuyên ta làm như thế, tức tu theo chân lý. Phật không dùng thần thông để tránh nghiệp chướng của ngài đã tự tạo hoặc diệt nghiệp cho ai cả (xem lại sự tích vua Lưu Ly giết năm trăm người dòng họ Thích).
Ai ăn nấy no, ai tu nấy được, không cần phải ép buộc. Tấy cả tùy duyên, thần thông vô ích; không ai điên rồ hái trái cây vừa đơm nụ đem vào dấu ép.
Ai là Phật tử chân chính, đã chán sắc, tướng vô thường của thế gian, hãy càng nên giữ gìn, thận trọng hơn để khỏi lầm sắc, tướng của Tiên, Thần. Như vậy mới thật là kẻ thấy Phật, biết Phật, theo Phật.