Lược giải kinh Kim Cương

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh

Lược giải
KINH KIM CƯƠNG
Dịch sáng chữ Hán: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Dịch giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
Xuất bản: Chùa Hoa Nghiêm - VA. USA. - PL. 2550

Thành kính đảnh lễ

Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thành kính đốt nén hương lòng đảnh lễ Pháp Bảo cùng chư Phật thường trụ khắp mười phương.
Thành kính niệm ân giáo dưỡng của Hòa thượng bổn sư, Hòa thượng y chỉ, chư vị giáo thọ, chư thiện tri thức.
Nguyện hồi hướng công đức dịch giải pháp bảo này cũng khắp pháp giới chúng sinh đều được lợi lạc.


LỜI GIỚI THIỆU
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.

Đến những thế kỷ sau, không những nhờ đọc kinh mà giác ngộ, người nước ta đã bắt đầu lý giải và mạnh mẽ xiển dương và truyền bá kinh này một cách rộng rãi qua những tác phẩm của họ. Chẳng hạn, chúng ta biết vua Trần Nhân Tông đã chú giải cho kinh Kim Cương. Rồi khi vua Lê Thái Tổ giành lại độc lập hoàn toàn cho đất nước, đã dùng kinh này như một bản kinh cơ bản để cho những ai muốn thực sự tu tập và hoằng dương Phật pháp.

Đến thiền sư Minh Châu Hương Hải, ta hiện có được bản giải kinh Kim Cương lý nghĩa lần đầu tiên được viết bằng tiếng Việt. Và đặc biệt thi hào Nguyễn Du đã từng thổ lộ: "Ta từng đọc kinh Kim Cương ngàn lần lẻ". (Ngã độc Kim Cương thiên biến linh).

Như thế, qua lịch sử kinh Kim Cương đã có một sự hấp dẫn lạ lùng với dân tộc ta, và có những dấu ấn sâu sắc trên đời sống tinh thần và học thuật của lịch sử Việt Nam. Đến thế kỷ này, nhiều bản dịch và chủ giải kinh này đã xuất hiện.

Ngày nay, Tỳ kheo Thích Minh Điền chùa Phước Viên, phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam là một trong bao nhiêu người đang theo gót các vị tiền nhân, chuyên trì tụng, học hỏi, suy tầm kinh Kim Cương mong được thấu hiểu, cảm nhận lỹ nghĩa thâm thúy của kinh, hầu chuyển hóa cuộc sống của mình ra khỏi những trói buộc vì si mê chấp thủ, và thầy đã lại dịch, chú giải kinh này góp phần liễu ngộ bé nhỏ của mình đối với nghĩa lý rộng sâu như biển cả của kinh Kim Cương.

Để tán thán tâm nguyện và công đức của thầy, tôi xin ghi lại nơi đây đôi dòng kính giới thiệu với Tăng Ni, Phật tử và độc giả xa gần. Cầu mong ơn pháp nhũ của đức Thế Tôn thấm nhuần khắp tới mọi người trong hiện tại và tương lai như đã từng xảy ra trong lịch sử quá khứ của dân tộc.
  • Phật lịch 2543 - Dương lịch 2000
    Hòa thượng Thích Thiện Siêu
LỜI TỰA
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa, gọi tắt là kinh Kim Cương, là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồn có 600 quyển mà đức Phật thuyết giảng. Toàn kinh hiển bày diệu lý vô trụ, nhằm hóa giải mọi thứ tình chấp mang tính cục bộ sai lầm của vọng tâm chúng sinh. Diệu lý này được gọi là trí tuệ Bát Nhã.

Trí tuệ Bát Nhã là thứ trí tuệ có năng lực xả ly hết thảy mọi chấp trước bởi thói quen dựng lập của tư duy hữu ngã, của nhị biên nhằm giúp hành giả sống lại với tự tính bản nhiên xưa nay của mình.

Những ai nhận được thật nghĩa của kinh này, thì cũng dễ dàng nhận được diệu nghĩa của những bộ kinh khác thuộc hệ phát triển. Vì tầm quan trong như vậy, nên đức Thế Tôn đã bỏ ra hai mươi hai năm để triển khai tuệ giác ngày.

Nay chúng ta là những trưởng tử của Như Lai, người kế thừa ngọn đèn chánh pháp của đức Thế Tôn, không thể nghiên cứu và thực tập thứ trí tuệ này. Đó là kỳ vọng mà tôi muốn gởi gắm nơi mỗi học Tăng hiện tiền, cũng như những ai muốn giã từ vô minh phiền lụy. Nguyện cùng làm pháp lữ trên lộ trình thú hướng cứu cánh giải thoát giác ngộ.

Thành tâm niệm ân giáo dưỡng của Hòa thượng bổn sư, quý bậc Tôn sư, quý thiện tri thức đã làm trợ duyên cho chúng con trên bước đường tu tập.

Tâm thành ý thiển, không sao tránh khỏi những sai sót lỗi lầm, ngưỡng mong chư tôn Thiền đức từ bi chỉ giáo, để hàng hậu học chúng con được thấm nhuần diệu chỉ.
    • Đầu Hạ an cư
      Phật lịch 2542 - Dương lịch 1998
      Viết tại chùa Phương Viên, P. Tân Hiệp
      TP. Biên Hòa, T. Đồng Nai, Việt Nam
      Tỳ kheo Thích Minh Điền


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN LƯỢC GIẢI

GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
KINH KIM CƯƠNG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Kinh: Tiếng Phạn gọi là Sutra, dịch âm là Tu đa la, dịch nghĩa là quán xuyến và nhiếp trì. Tâm chúng sinh nhờ nương vào sự quán xuyến và nhiếp trì bởi chánh niệm tỉnh giác, nên tâm không lưu tán vào những nẻo ác, gọi là Kinh.

Ngoài ra, nhưng lời dạy của chư Tổ được ghi lại thì gọi là Ngữ Lục, trừ kinh Pháp Bảo Đàn của đức Lục tổ Huệ Năng là do ngài di chúc lại.

Kinh mang tính khế cơ và khế lý, nghĩa là thích hợp với từng căn cơ chúng sinh, và khế hợp chân lý.

Hệ kinh điển mang tính khế cơ được gọi là Bất liễu nghĩa. Hệ kinh này nhằm giúp cho chúng ta hình thành cho mình một phàm tuệ, bằng chánh niệm tỉnh giác, hầu thấu rõ mọi hoành tung thiện ác, để chúng ta chuyển hóa thân tâm và ngoại tại, nhằm đem lại sự bình ổn, sự tươi mát, an lạc và hạnh phúc cho cuộc sống tương duyên này.

Hệ kinh điển mang tính khế lý được gọi là Liễu nghĩa. Hệ kinh này nhằm giúp cho chúng ta hình thành cho mình một Thánh tuệ, tức sống đúng với bản giác sẵn có xưa nay của mình, ngõ hầu mở tung mọi lầm chấp bởi thói quen dựng lập của vọng tưởng.

Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa: Là dịch âm từ tiếng Phạn Vajra Prajnā Pāramitā, gọi tắt là Kim Cương. Kim cương là loại đá quý rất rắn chắc. Nó có công năng phá hoại hết thảy mọi thứ kim loại khác, mà không có thứ kim loại nào phá hoại được nó.

Phật dùng hình ảnh kim cương để dụ cho thứ trí tuệ Bát Nhã mà mỗi chúng sinh đều có. Thứ trí tuệ này có năng lực hóa giải hết thảy những dựng lập thuộc về tư duy hữu ngã, nhằm phá tung mọi chấp trước sai lầm của vọng tâm, hầu đưa chúng sanh thẳng đến giác ngộ.

Kinh này lấy ví dụ và đồng thời cũng là Pháp mà đặt tên, lấy thật tướng làm thể, lấy vô trụ làm tông chỉ thú hướng, lấy sự hóa giải mọi thứ tri kiến lập tri làm dụng.

Kinh này được kết tập theo ý đức Phật thuyết giảng ban đầu và ngài A Nan thuật lại, ngài Cưu Ma La Thập dịch văn Phạn sang văn Trung Quốc, và ngày nay chúng ta đang nghiên cứu bản này.

Song, muốn thể nhập chân lý, đòi hỏi chúng ta phải sử dụng quán chiếu Bát Nhã, nhằm dần dần thể nhập thật tướng Bát Nhã. Và muốn được vậy, trước hết chúng ta phải nhận ra nghĩa thú của kinh, rồi mới áp dụng hành trì.

Ngược lại, nếu chỉ lo tìm hiểu văn từ ngữ nghĩa, rồi tích tập cho đầy trí nhớ; mà không quán chiếu hành trì, thì chẳng khác nào đi tìm mùi vị của bánh vẽ, tự bản thân không thể giải trừ được những chấp thủ sai lầm thâm căn cố đế của vọng tâm, và khó mà thành tựu giải thoát giác ngộ. Rất mong hành giả liễu tri cho.
LƯỢC GIẢI

I. PHÁP HỘI NHÂN DO
Như thị ngã văn:

Nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Ðộc viên dữ đại Tỳ kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu. Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạn thực ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.
  • Dịch nghĩa:

    NHÂN DO PHÁT KHỞI HỘI BÁT NHÃ
Tôi nghe như vầy,
Vào một lúc nọ
Đức Phật hiện trú
Ở nước Xá Vệ
Trong khu vườn cây
Do Cấp Cô Độc
Cùng với Kỳ Đà
Tạo lập cúng Phật
Với chúng đệ tử
Một nghìn hai trăm
Năm chục Tỳ kheo
Cùng đến hội họp.

  • Bấy giờ là lúc
    Gần giờ ngọ trai
    Nên đức Thế Tôn
    Đắp y cầm bát
    Vào trong thành lớn
    Của nước Xá Vệ
    Theo pháp khất thực.
Ở trong thành ấy
Thứ lớp khất thực
Rồi lại trở về
Chỗ cũ thọ trai.

  • Ngọ trai vừa xong
    Đức Phật giải y
    Thu dọn bát pháp
    Rửa sạch đôi chân
    Trải tòa ngồi nghỉ.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Như thị: Như vậy, y như vậy, không sai khác thực tại. Nói sao nghe vậy, nghe sao nói vậy, thấy như thật thấy, nghe như thật v.v...
  2. Kỳ thọ, Cấp Cô Độc viên: Cây cảnh thì của Thái tử Kỳ Đà cúng dường, còn vườn đất thì do ông Cấp Cô Độc bỏ vàng mua lại của Thái tử Kỳ Đà. Một người cúng cây cảnh, một người cúng vườn đất để lập tịnh xá cúng dường đức Phật và giáo đoàn.
  3. Thứ đệ khất thực: Pháp khất thực của đức Phật là theo thứ lớp từng nhà một để khất thực, chứ không lựa chọn giàu nghèo sang hèn, bởi chính tâm bình đẳng của Phật vậy.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Thể hiện cuộc sống chánh niệm tỉnh giác, chính là thực hiện nghệ thuật sống tốt đẹp nhất của đấng giác ngộ. Ở nơi tâm thể thường nhiên ngang qua bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi một cách nhẹ nhàng khoan thai và siêu thoát. Một cuộc sống không vồn vã hấp tấp, không ôm đồm tham đắm; mà thể hiện tâm bình thường thanh thoát và chính cái "Tâm bình thường là đạo" vậy.

Hằng ngày, đức Phật đi khất thực khi gần giờ ngọ trai, và theo thứ lớp mà khất thực một cách ung dung tự tại, chứ không sanh tâm phân biệt, lựa chọn giàu nghèo, sang hèn. Thọ trai xong, Phật giải ý, cất bát, rồi rửa sách tay chân, trải tòa ngồi nghỉ.

Cuộc sống thường nhiên của đức Phật nói lên tâm hành vô trụ, bởi chính thực tại tuệ giác. Đó là thiền cơ, nhằm xúc tác vào tâm hồn thầy Thiện Hiện, để thầy tác duyên thưa thỉnh đức Phật, nhằm triển khai thứ tuệ giác này cho đại chúng.
II. THIỆN HIỆN KHỞI THỈNH
Thời Trưởng lão Tu Bồ Ðề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn:

- Hi hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát! Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?

Phật ngôn: "Thiện tai! Thiện tai! Tu Bồ Ðề! Như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhử kim đế thính, đương vị nhử thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm".

- Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.
  • Dịch nghĩa:

    TRƯỞNG LÃO THIỆN HIỆN KHỞI THỈNH
Bấy giờ trong chúng
Trưởng lão Thiện Hiện
Từ tòa đứng dậy
Để hở vai phải
Gối phải quỳ xuống
Chấp tay thành kính
Bạch với Phật rằng:

  • - Bạch đức Thế Tôn!
    Thật là hiếm có
    Như Lai thật khéo
    Để tâm giúp đỡ
    Các vị Bồ tát
    Và khéo giao phó
    Ân cần căn dặn
    Các vị Bồ tát.
    Bạch đức Thế Tôn!
    Nếu có thiện nam
    Cùng người tín nữ
    Phát tâm vô thượng
    Chánh đẳng chánh giác
    Thì phải làm sao
    An trụ tâm mình?
    Và bằng cách nào
    Hàng phục tâm ấy?
Đức Phật dạy rằng:
- Lành thay! Lành thay!
Nầy thầy Thiện Hiện
Như lời thầy nói
Như Lai thật khéo
Để tâm giúp đỡ
Các vị Bồ tát
Thật khéo giao phó
Ân cần căn dặn
Các vị Bồ tát.
Nay thầy nghe kỹ
Sẽ vì thầy nói:
- Nếu có thiện nam
Cùng người tín nữ
Phát tâm vô thượng
Chánh đẳng chánh giác
Nên như vậy trụ
Như vậy hàng phục
Cái tâm của mình.

  • - Xin vâng bạch Phật!
    Con muốn được nghe.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Thiện Hiện: Cũng gọi là Thiện Kiết, là tên dịch nghĩa do khi sinh thầy thì có những điều lành. Còn tên Tu Bồ Đề là dịch âm tiếng Phạn Subhuti. Thầy là một trong số mười vị đệ tử lớn của Phật, và thầy có sở trường giải Không đệ nhất, nên cũng gọi là Không Sanh.
  2. Trưởng lão: Những vị đã trưởng thành trong chánh pháp gọi là Trưởng lão. Trưởng lão ở đây là căn cứ vào dạo lực, đạo phong, vào quả vị tu chứng; chứ không phải căn cứ vào tuổi tác, bằng cấp, địa vị. Thầy Tu Bồ Đề cũng được gọi là Trưởng lão Tu Bồ Đề.
  3. Thế Tôn: Là đấng mà cả thế gian đều tôn kính. Đó là một trong mười danh hiệu của một vị Phật.
  4. Như Lai: Tiếng Phạn là Tathagata, là một trong mười danh hiệu của một vị Phật. Như Lai là nương vào như thật mà thành chánh giác, cho nên đoạn sau đức Phật dạy: "Không từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai"
  5. Thiện hộ niệm: Khéo nhớ nghĩ đến để giúp đỡ và bảo hộ cho hàng Bồ tát tấn tu.
  6. Thiện phó chúc: Khéo dặn dò, nhắc nhở và giao phó pháp lớn cho hàng Bồ tát lớn từ Bát địa trở lên.
  7. Bồ tát: Dịch âm tiếng Phan Bodhisattva (Bô-đi-sát-toa). Dịch nghĩa là giác hữu tình, nghĩa là giác ngộ những thứ tình thức biến dạng liên tục bởi vọng tâm, và phát nguyện rộng lớn để độ thoát chúng sinh.
  8. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề: Là dịch âm tiếng Phạn Anuttara Samyak Sambodhi: A dịch là Vô, Nuttara dịch là thượng, Sam dịch là chánh, Yak dịch là đẳng, Sam dịch là chánh, Bodhi dịch là giác. Là sự giác ngộ tột cùng không có gì so sánh được, chỉ cho trí giác ngộ của chư Phật, nó rời khỏi mọi cặp phạm trù đối đãi hai bên bởi thứ tri kiến chúng sinh. Bởi bản chất của các pháp là lìa khỏi mọi cặp phạm trù đối đãi của vọng tâm. "Nhất thiết pháp tùng bản dĩ lai, ly danh tự tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng, vô hữu biến dị, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố danh chân như"(1).
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Sống chánh niệm tỉnh giác là thể hiện oai nghi tế hạnh của một vị Tỳ kheo trong cuộc sống thường nhiên. Vì vậy cho nên, thực hiện đạo phong: Trên cung dưới kính, hòa kỷ hòa tha, khiêm hạ thanh nhàn, tịnh tâm và giải thoát", là cách sống thiện lành nhất.

Trên cung là thể hiện sự cung kính đối với những bậc thánh nhân, những bậc thầy đáng kính, cung kính những bậc tiền bối mà mình đã mang ơn. Dưới kính là thể hiện sự tương kính đối với những vị dưới mình như sư em, đệ tử, con cái, người giúp việc v.v... Thể hiện sự tương kính là một đức tính tốt đẹp, nhằm xóa đi những dị biệt do tính cống cao ngã mạn tự đắc gây nên, tạo tiền đề ngăn cách giữa mình và người khác. Hòa kỷ là tự thân mình không bị đầu độc bằng xì ke, ma túy, thuốc lá, rượu v.v... Không tự mình nuôi dưỡng những tâm lý không lành mạnh, tạo thành động cơ dẫn đến sầu bi khổ ưu não. Hòa tha là biết thực hiện hành động tương tức, nhằm lành mạnh hóa thân tâm mình và tha nhân cũng như môi trường sống.

Khiêm hạ là thể hiện đức tính khiêm cung, tự hạ mình xuống để học hỏi lẫn nhau trong cuộc sống trùng duyên này. Thanh nhàn là thể hiện tâm thái thanh thoát và nhẹ nhàng trong mọi hành vi cử chỉ. Tịnh tâm và giải thoát là không để cho tâm trôi về quá khứ và tương lai, hoặc bị dính mắc trong hiện tại. Sống đúng với tuệ giác thực tại, nên tâm không bị mê muội dật dờ, hay bị trói buộc.

Thể hiện nhân cách viên mãn ấy chính là thầy Thiện Hiện (Tu Bồ Đề). Thầy có cái danh "Không Sanh" mà "không chẳng sanh", nên đứng dậy thành kính thể hiện đầy đủ oai nghi tế hạnh của một vị Tỳ kheo, đảnh lễ đức Phật rồi thưa thỉnh, tác duyên để Phật chỉ rõ ra (khai thị) nghệ thuật an trụ tâm và hàng phục tâm cho đại chúng.
  • "Bạch đức Thế Tôn, có kẻ thiện nam cùng người tín nữ phát tâm Bồ đề, thì phải làm sao an trụ tâm mình và bằng cách nào hàng phục tâm ấy".
Thầy Thiện Hiện hỏi cách an trụ và cách hàng phục tâm, thì được đức Phật dạy: "Có kẻ thiện nam cùng người tín nữ phát tâm Bồ đề, nên như vậy trụ, như vậy hàng phục tâm ấy". Như vậy nghĩa là không thêm không bớt, mà chỉ là "cái nghe bằng chính cái nghe, cái thấy bằng chính cái thấy, cái ngửi bằng chính cái ngửi v.v...", tức "như thị" mà không khởi vọng tâm thêm bớt (chấp thủ, lập trước vật). Vì sao như vậy? Vì sinh tâm chấp thủ, lập trước vật chính là thói quen dựng lập của tư duy hữu ngã. Tự thân nó mang tính cục bộ chủ quan áp đặt của vọng thức lên thực tại, chứ không phải là bản thân thực tại. Bởi thực tại là "như thị", nên "không thể dùng văn tự để diễn bày, không thể dùng lời tiếng để nói phô, không thể dùng tâm duyên để nhận chân", mà "nên như vậy trụ, như vậy hàng phục tâm ấy". Bởi an trụ tâm là để tâm thể nhập vô thượng chánh đẳng chánh giác, và hàng phục tâm là để cho tâm không bị giao động tán loạn. Vì vậy cho nên, người phát tâm Bồ đề là trên cầu trí giác vô thượng, dưới hóa độ tất cả chúng sinh, và khi nào chúng sinh tâm (tức vọng tưởng) được hóa sạch thì trí giác ngộ mới hiện bày. Vọng thức hay tri kiến chúng sinh, chính là động cơ tạo thành chuỗi dài sinh diệt trong tự tâm, làm cho tâm mãi trôi dài trong dòng samsāra (dòng luân chuyển) vô tận, để rồi phải nhận lấy hệ quả sầu bi khổ ưu não triền miên. Nay được đức Phật khai thị nghệ thuật an trụ tâm và hàng phục tâm bằng "như thị", tức thực hiện nghệ thuật sống lìa bỏ mọi chấp thủ của tình thức, của vọng tưởng thuộc về tư duy hữu ngã, thuộc về biến kế sở chấp(2).

Chúng ta thấy rằng, nhân loại ngày nay có những mối bất hòa, là do bởi mỗi người tự phó thác cho tình thức của mình điều khiển. Mỗi khi tình thức ấy không được soi sáng bởi tuệ giác và không được hướng dẫn bởi tình thương thì con người tự làm khổ mình, khổ người. Những cuộc chiến tranh đã diễn ra trên mọi chiến trường, đâu không phải là do tình thức cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi của con người cộng lại? Mọi giải pháp hòa giải dựa trên tình thức, chỉ đem lại hòa bình nhất thời mà thôi. Vì vậy cho nên, đức Phật dạy: "Tâm bình thì thế giới bình". Và muốn cho tâm bình, thì phải biết cách an trụ tâm và hàng phục tâm. Để nhận rõ thêm nghệ thuật an trụ và hàng phục này, thầy Thiện Hiện thưa: "Xin vâng bạch Phật! Con muốn nghe".

GHI CHÚ:

(1) "Hết thảy các pháp, từ trong bản chất nó lìa tướng danh tự, lìa tướng nói năng, lìa tường tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi chân như". Trích từ Luận Đại Thừa Khởi Tín của ngài Mã Minh.

(2) Tình thức có công năng chấp trước vào hiện tượng giới để tạo thành vọng tâm chủ quan (biến kế sở chấp, tức hiện tiền lập trước vật).
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 15/09/12 13:36 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

III. ĐẠI THỪA CHÍNH TÔNG
Phật cáo Tu Bồ Ðề: Chư Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sinh chi loại, nhược noản sinh, nhược thai sinh, nhược thấp sanh, nhược hóa sinh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng; nhược phi hữu tưởng, phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sinh, thiệt vô chúng sinh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố?

Tu Bồ Ðề! Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát.
  • Dịch nghĩa:

    TÔNG ĐẠI THỪA CHÁNH YẾU
Phật dạy Thiện Hiện:
Những Bồ tát lớn
Hãy nên như vậy
Hàng phục tâm ấy:
Chỗ có hết thảy
Những loài chúng sinh
Hoặc sinh bằng trứng
Hoặc sinh bằng thai
Sinh nơi ẩm thấp
Sinh bằng chuyển hóa
Hoặc loài có sắc
Hoặc loài không sắc
Hoặc loài có tưởng
Hoặc loài không tưởng
Hoặc chẳng có tưởng
Hoặc chẳng không tưởng
Ta đều làm cho
Diệt độ hết thảy
Vào chốn Niết bàn
Vô dư rốt ráo.

  • Diệt độ như vậy
    Không thể tính hết
    Số lượng chúng sinh
    Nhưng thật hoàn toàn
    Chẳng thấy chúng sinh
    Được mình diệt độ.
    Vì sao như vậy?
    Này thầy Thiện Hiện
    Vì nếu Bồ tát
    Mà có ý tưởng
    Ngã, nhơn, chúng sanh
    Cùng tưởng, thọ giả
    Tức không thể gọi
    Là bậc Bồ tát.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Đại thừa: Tiếng Phạn là Mahayana (Ma ha diễn) nghĩa là cỗ xe lớn. Phật lấy cỗ xe lớn để ám chỉ cho pháp lớn không ngằn mé, nhằm giúp hành giả hóa giải mọi lầm chấp của tự tâm, để hình thành cho mình một tâm thể cũng rộng lớn không ngằn mé, tức đạt thành nhất thiết trí.
  2. Chính tông: Là tông chính yếu để thành tựu trí giác vô thượng, cũng gọi là Phật tâm tông.
  3. Bồ tát Ma Ha tát: Là Bồ tát lớn, chỉ cho hàng Bồ tát từ Bát địa trở lên.
  4. Sở hữu nhất thiết chúng sinh chi loại: Chỗ có hết thảy các loài chúng sinh. "Sở hữu" ở đây ám chỉ cho những gì thuộc về chấp thủ của tâm (tâm sở hữu pháp...), còn vật thì không có sở hữu. Sở hữu là thuộc về tình thức, thuộc loài hữu tình, thuộc tâm chúng sinh.
  5. Noãn sinh: Loài sinh bằng trứng như chim ca, v.v..., ở đây dụ cho loại hình tư tưởng, mưu mô, xảo trá. Kế cao dụ cho chim bay, mưu sâu dụ cho cá lặn v.v...
  6. Thai sinh: Loài sinh ra từ bào thai như người, heo, chó v.v..., ở đây dụ cho loại hình tư tưởng thuộc về đa dâm sắc dục, tâm nghiêng về bản năng.
  7. Thấp sinh: Loài sinh ra từ ẩm thấp như vi khuẩn, lăng quăng v.v..., ở đây dụ cho loại hình tư tưởng nhỏ mọn, đê hèn, bẩn thỉu...
  8. Hóa sinh: Loài sinh bằng chuyển hóa như ở các tầng trời, như bướm, ong v.v..., ở đây dụ cho loại hình tư tưởng lập lường, tráo trở, trước sau bất nhất...
  9. Hữu sắc: Loài có hình sắc. Ở đây dụ cho loại hình tư tưởng nương vào sắc mà hình thành, đối tượng của nó là sắc trần.
  10. Vô sắc: Loài không có sắc chất như thổ địa, thần tài..., ở đây dụ cho loại hình tư tưởng lưỡng phân, nghĩa là một nửa trừu tượng, một nửa cụ thể. Đất thì có, mà thổ địa thì không, tài lời thì có mà thần tài thì vô hình trung. Hoặc những khái niệm như lông rùa, sừng thỏ (thỏ, rùa thì có mà lông rùa, sừng thỏ thì không có).
  11. Hữu tưởng: Loài có tưởng, ở đây dụ cho những tư tưởng trừu tượng như độc lập, tự do v.v...
  12. Vô tưởng: Loài không tưởng. Ở đây dụ cho loại hình tư tưởng hoàn toàn trừu tượng thuộc về siêu thực, như thượng đế, ông trời...
  13. Phi hữu tưởng: Loài chẳng có tưởng. Ở đây dụ cho trạng thái trầm không của người tu thiền định sai lạc, thuộc về tưởng trầm không, nên rơi vào cõi phi thưởng.
  14. Phi vô tuưởng: Loài chẳng không tưởng. Ở đây dụ cho trạng thái trệ trịch của người tu thiền định sai lạc, gọi là ngậm nước chết của hầm sâu vô minh, nên rơi vào cõi phi phi tưởng.

    Mười loại chúng sinh ở trên đều thuộc về đối tượng của tâm thức, từ cụ thể đên trừu tượng, và có cùng một mẫu số chung, đó là tưởng.
  15. Vô dư Niết bàn: Niết bàn rốt ráo, tức không còn sanh thân hữu dư. Nhưng ở đây còn sanh thân hữu dư mà Phật lại bảo độ chúng sinh vào Vô dư Niết bàn, như vậy chúng sinh ở đây chính là vọng tưởng.
  16. Ngã tưởng: Những hình thái tư tưởng do tư duy về mình mà hình thành.
  17. Nhân tưởng: Những hình thái tư tưởng do tư duy về những người khác mà hình thành.
  18. Chúng sinh tưởng: Những hình thái tư tưởng do tư duy về nhiều yếu tố khác nhau mà hình thành (giả chúng duyên nhi sinh tưởng).
  19. Thọ giả tưởng: Những hình thái tư tưởng được hình thành bởi những cảm thọ từ thô đến tế, kể cả thọ mạng của dòng thức (yêu tố chấp ngã bởi Mạt Na và hạt giống), kể cả trạng thái thiền định mà tâm thức rơi vào trần không trệ tịch (rơi vào ngậm nước chết, rơi vào vô ký, cũng là một dạng thọ giả tưởng vi tế) cho đến phi tưởng, phi phi tưởng đi nữa cũng vẫn còn bị tưởng phi tưởng khống chế.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật dạy tông chánh yếu của Đại thừa là độ hết thảy chúng sinh. Chúng sinh thì nhiều vô số kể, nhưng không ra ngoài mười loại: Loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng bào thai, loài sinh ở nơi ẩm thấp, loài sinh bằng sự chuyển hóa, loài có sắc, loài không sắc, loài có tưởng, loài không tưởng, loài chẳng có tưởng, loài chẳng không tưởng. Hành giả phải độ hết thảy chúng sinh ấy vào Niết bàn rốt ráo (vô dư). Niết bàn vô dư là Niết bàn không còn sanh thân hữu dư. Nhưng ở đây vẫn còn sanh thân hữu dư mà Phật lại bảo độ vào Niết bàn vô dư, thì chúng sinh ấy chính là vọng tưởng.

Những vọng tưởng từ những mưu cao kế sâu, những tư tưởng đa dâm sắc dục, những tư tưởng nhỏ mọn đề hèn, những tư tưởng lập lường tráo trở trước sau bất nhất, những tư tưởng đắm sắc tham tài, mộng mơ tơ tưởng, tin tưởng viễn vông v.v... cho đến trạng thái trầm không trệ tịch của những người thiền định sai lạc, rơi vào ngậm nước chết, rơi vào vô ký không, ngất ngây huyền ảo (phi phi tưởng).

Mười loại chúng sinh ấy có cùng một mẫu số chung là tưởng. Tưởng được hình thành ngang qua tâm thức của mỗi chúng ta, bởi bốn trạng huống:
  1. Những tư tưởng do tư duy về mình mà hình thành (ngã tưởng).
  2. Những tư tưởng do tuy duy về người khác mà hình thành (nhân tưởng).
  3. Những tư tưởng do tư duy về nhiều yếu tố mà hình thành (chúng sinh tưởng).
  4. Những tư tưởng do tư duy về những cảm thọ mà hình thành (thọ giả tưởng), kể cả những hạt giống thọ mạng về từng sanh thân, cũng như trạng thái trầm không trệ tịch của thiền định sai lạc, rơi vào phi tưởng, phi phi tưởng.
Diệt độ hết thảy chúng sinh vào chốn Niết bàn vô dư, mà thật hoàn toàn chẳng thấy chúng sinh được mình diệt độ. Vì cớ sao? Vì năng độ cũng là do tâm, mà sở độ cũng là tâm. Độ hết thảy chúng sinh tức sở độ không còn, thì năng độ cũng chấm dứt, tức tư duy hữu ngã không còn dựng lập.

Và mỗi khi trong tâm không còn chấp thủ, không còn lập trước vật, thì hành giả mới sống đúng với trí huệ Bát Nhã của mình. Trí huệ Bát Nhã chính là: "Tâm thể rộng lớn thênh thang, không còn chướng ngại, chẳng chút sợ hãi, lìa hẳn điên đảo, sạch hết mộng tưởng, rốt ráo Niết Bàn".

Ngược lại, nếu vị Bồ tát mà còn ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng thì không thể gọi là bậc Bồ tát. Bởi bậc Bồ tát là giác hữu tình, nghĩa là giác ngộ hết thảy mọi thứ tình chấp của tự tâm, hằng phát nguyện rộng lớn với pháp lớn không ngằn mé(1), nhằm rộng độ chúng sinh vô biên. Con đường Bồ tát là con đường chim bay không lưu vết, con đường của đạo học chứ không phải là con đường của triết học. Vì vậy cho nên đức Phật dạy: "Nên như vậy trụ, như vậy hàng phục tâm ấy".

Đó cũng chính là nghệ thuật sống bằng thực tại tuệ giác, bởi trí tuệ Bát nhã của vị giác hữu tình. Vì cớ sao? Vì "Diệu hạnh của Bồ tát là vô trụ" vậy.

GHI CHÚ:

(1) Đại thừa: Tâm siêu việt tư lượng: phi tư lượng.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

IV. DIỆU HẠNH VÔ TRỤ
Phục thứ, Tu Bồ Ðề! Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí.

Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Tu Bồ Ðề! Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lương.

Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Ðông phương hư không khả tư lương phủ?

- Phất dã, Thế Tôn!

- Tu Bồ Ðề! Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy thượng hạ hư không khả tư lương phủ?

- Phất dã, Thế Tôn!

- Tu Bồ Ðề! Bồ Tát vô trụ tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị, bất khả tư lương. Tu Bồ Ðề! Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ.
  • Dịch nghĩa:

    DIỆU HẠNH KHÔNG TRỤ
Lại nữa Thiện Hiện
Ở nơi các pháp
Bồ tát không nên
Trụ tâm vào chúng
Thực hành bố thí
Nghĩa là bố thí
Không trụ nơi sắc
Thanh, hương, vị, xúc
Không trụ nơi pháp.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Là bậc Bồ tát
    Nên y như vậy
    Thực hành bố thí
    Không trụ nơi tướng.
    Vì sao như vậy?
    Vì bậc Bồ tát
    Chẳng trụ nơi tướng
    Thực hành bố thí
    Thí phước đức ấy
    Không thể nghĩ lường.
    Này thầy Thiện Hiện
    Ý thầy thế nào?
    Có thể đo lường
    Được cõi hư không
    Ở phương Đông chăng?
Bạch đức Thế Tôn
Không thể lường được.

Này thầy Thiện Hiện
Hư không phương Nam
Phương Tây, phương Bắc
Bốn phía dưới trên
Có thể đo lường
Cõi ấy được chăng?

Bạch đức Thế Tôn
Không thể đo lường.

Này thầy Thiện Hiện
Bồ tát bố thí
Không trụ nơi tướng
Thì phước đức ấy
Lại cũng như vậy
Không thể lường được.
Này thầy Thiện Hiện
Bồ tát chỉ nên
An trụ tâm mình
Như lời vừa giảng.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Pháp: Gọi chung mọi hiện tượng vật lý, tâm lý, hữu vi, vô vi...
  2. Vô sở trụ: Không chỗ trụ. Sở trụ là pháp sở hữu của tâm, được vọng thức kiến lập khi xúc cảnh.
  3. Bố thí: Đem sức lực hoặc tài vật giúp cho chúng sinh thì gọi là tài thí. Đem chánh pháp ra giảng giải cho người hiểu, để thoát khỏi vòng mê muội, khổ đau thì gọi là pháp thí. Còn bố thí ở đây là xả ly chấp ngã và chấp pháp, cũng gọi là hằng thuận pháp tính.
  4. Bất khả tư lượng: Không thể suy nghĩ và đo lường được vì không có tư duy hữu ngã can dự vào, tức tâm đã xả ly mọi tư lượng.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật dạy: " "Các Bồ tát ở nơi các pháp không nên trụ tâm vào chúng thực hành bố thí", Vì sao? Vì đem tâm trụ vào các pháp, thì tướng tâm trụ ấy là pháp sở hữu của tâm, chứ không phải bản thân các pháp, mà bản thân các pháp là "Như thị". Vì vậy cho nên, Bồ tát không trụ tâm các pháp mà hành bố thí. Bởi hành bố thí ở đây có nghĩa là hằng thuận pháp tính tức "Cái nghe bằng cái nghe, cái thấy bằng cái thấy v.v..", mà không khởi vọng tâm chấp thủ, thì sự bố thí ấy thuộc động cơ chấp ngã nên không khỏi vướng mắc ta, người, chúng sinh, thọ giả và vẫn bị sầu bi khổ ưu não khống chế.

Vì vậy cho nên, ở đoạn sau đức Phật dạy: "Nên không ta, không người, không chúng sinh, không thọ giả mà thực hành hết thảy pháp lành, tức đắc đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác".

Đây chính là sự xả ly rốt ráo, tức bố thí Ba la mật vậy. Tâm bố thí hay xả ly là pháp đứng đầu trong "Lục độ Ba la mật" của một vị Bồ tát. Xả sạch chấp ngã và chấp pháp là chánh nhân thành Phật.

Vì cớ sao? Vì xả bỏ mọi chấp thủ, chính là giải trừ động cơ dẫn đến sầu bi khổ ưu não. Thực hiện thực tại tuệ giác chính là bít cửa sinh diệt (Samāra: dòng chảy tâm vật lý: luân hồi). Xóa sạch mọi tình chấp (tức sinh đã tận, lậu đã tận), nên đạt được Niết bàn rốt ráo, thì phước đức ấy không thể suy lường.

Như hư không của mười phương thế giới vô sở hữu, nhưng dung chứa sum la vạn tượng trong ấy. Tâm vô sở trụ của Bồ tát cũng lại như vậy. Vì sô sở hữu nên thường tịch, vì trống không, không tự ngã nên thường chiếu. Đó chính là diệu hạnh vô trụ của một vị Bồ tát.

Ngược lại, nếu bố thí tiền của dù nhiều đến cỡ nào đi nữa cũng có hạn lượng, chỉ giúp người thoát khỏi nghèo đói, và chỉ có phúc đức hữu lậu mà thôi. Nếu động cơ chấp ngã vẫn chưa được giải trừ, thì cũng không thoát khỏi dòng sinh tử với bao khổ lụy bi ai.

Vì vậy, cho nên đức Phật dạy: "Bồ tát chỉ nên an trụ tâm mình như lời vừa giảng", đó mới là "như lý thật kiến".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

V. NHƯ LÝ THẬT KIẾN
Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ?

- Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân tướng, tức phi thân tướng.

Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng: nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai".
  • Dịch nghĩa:

    THẤY CHÂN NHƯ LÝ
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Có thể chấp vào
Cái thân sắc tướng
Mà cho rằng thấy
Được Như Lai chăng?

  • Bạch đức Thế Tôn
    Không thấy vậy được
    Không thể chấp vào
    Cái thân sắc tướng
    Mà cho rằng thấy
    Được đức Như Lai.
    Vì sao như vậy?
    Vì thân tướng ấy
    Như Lai nói rằng
    Chẳng phải thân tướng.
Phật bảo Thiện Hiện:
Phàm sở hữu tướng
Đều là hư vọng
Nếu thấy các tướng
Phi tướng (sở hữu)
Tức thấy Như Lai.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Thân tướng: Là cái tướng duyên sinh mang tính tổng hợp (vô ngã), cũng gọi là hợp thể năm uẩn, nó thuộc sinh diệt biến dị (mang lý tính vô ngã và vô thường).
  2. Thân Như Lai: Là pháp thân trí tướng. Vì thân trí tướng, cho nên vượt thoát mọi khái niệm giả lập của tâm thức. Vì vậy cho nên, nói pháp thân chẳng phải là thân tướng (tức không thuộc thân tướng hữu vi).
  3. Sở hữu tướng: Là tướng sở hữu của tâm, do tâm thức dựng lập mà có.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật dạy: "Thân sắc tướng không phải là Như Lai".

Vì sao như vậy? Vì thân sắc tướng là hợp thể của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), nên nó tùy thuộc vào nhau mà hiện khởi, không có chủ tác (vô ngã), không mang lý tính cá thể biệt lập (duyên sanh), không thường tại (vô thường) mà luôn luôn biến đổi từ dạng này sang dạng khác cho đến vô cùng.

Vì vậy cho nên, nếu nhìn thật sâu lòng thực tại, thì chẳng có thân tướng nào khác thân tướng nào, bởi: "sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc" nghĩa là vừa ở dạng hạt(1), vừa ở dạng sóng năng lượng. Bởi mọi hiện tượng đều đang trở thành do lý tính vô ngã và vô thường, cho nên "thân tướng tức phi thân thướng", nghĩa là "thân tướng không phải là pháp thân trí tướng của Như Lai". Vì vậy, nhìn thực tại bằng vọng kiến thì tầm nhìn ấy trở nên phiến diện và sai lầm. Bởi vọng kiến là sản phẩn giả lập của tâm thức, chứ không phải là bản thân thực tại, mà bản thân thực tại là "như thị", tức là "thấy chân thật như lý".

Còn "Phàm tướng sở hữu đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng phi tướng (tức không bị biến kế sở chấp đánh lừa) tức thấy Như Lai". Như là thể tịch nhiên vắng lặng, mà Lai dụng chiếu soi của tánh giác. Còn tướng sở hữu chính là tướng chấp thủ của tâm thức (pháp sở hữu của tâm). Vì vậy cho nên, phải liễu ngộ pháp không, để tự chứng vào thực tại bằng cách hóa giải mọi động cơ trói buộc ban đầu, tức "hốt sanh nhất niệm vô minh" hay chính là tri thức suy luận (sở hữu tướng) bởi thói quen dựng lập của tâm thức, nên rơi vào biên kiến: đoạn thường, thật giả, có không v.v...

Cái "tình thức" của chúng ta bị chia sẻ manh mún bởi sự lộng hành vô độ của công họa sư tâm ý, đó chính là động cơ tạo nên dòng sinh diệt để phải đi vào muôn kiếp lạnh lùng với bao mùi vị đắng cay, sầu bi khổ ưu não.

Tổ Huệ Năng nói: "Phật pháp là pháp chẳng hai", tức "như thị". Vì vậy cho nên hành giả phải tức thời tỉnh giác để vượt thoát xu hướng phân tích của bộ óc (biến kế sở chấp) mà tự nó mang tính áp đặt chủ quan và phi lý lên thực tại.

Vượt lên trên mọi "tri kiến lập tri", tức "Kiến chư tướng phi tướng", mới thành tựu Thánh đế đệ nhất nghĩa (tức thực tại tối thượng), mới thấu rõ pháp thân thường tại (kiến Như Lai), cũng gọi là lý tánh tuyệt đối, thường hằng và phổ quát của vũ trụ vạn hữu.

Vì vậy trong kinh Niết Bàn, đức Phật dạy: "Nếu trong tâm không còn vọng tưởng (kiến chư tướng phi tướng), thì bên ngoại vạn pháp hiện toàn chân" (tức kiến Như Lai). Tin được như vậy mới gọi là "chánh tín hy hữu".

GHI CHÚ:

(1) Hạt: Quart là hạt căn bản của điện tử.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VI. CHÁNH TÍN HY HỮU
Tu Bồ Ðề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú sinh thật tín phủ?"

Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Mạc tác thị thuyết. Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú, năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thật.

Ðương tri thị nhơn, bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam, tứ, ngũ Phật, nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng, thiện vạn Phật sở, chủng chư thiện căn. Văn thị chương cú, nãi chí nhất niệm, sanh tịnh tín giả.

Tu Bồ Ðề! Như Lai, tất tri tất kiến, thị chư chúng sinh, đắc như thị vô lượng phước đức.

Hà dĩ cố? Thị chư chúng sinh vô phục ngã tướng, nhơn tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng, diệc vô phi pháp tướng.

Hà dĩ cố? Thị chư chúng sinh nhược tâm thủ tướng, tắc vi trước ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả; nhược thủ pháp tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả.

Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả. Thị cố, bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp.

Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xã, hà huống phi pháp!
  • Dịch nghĩa:

    NIỀM TIN CHÂN CHÁNH RẤT HIẾM CÓ
Thiện Hiện bạch Phật:
Bạch dức Thế Tôn
Hoặc có chúng sinh
Được nghe Phật dạy
Chương cú như vậy
Mà có thể sinh
Lòng tin thật chăng?

  • Phật bảo Thiện Hiện:
    Thầy đừng nói vậy
    Sau khi Như Lai
    Vào chốn Niết bàn
    Năm trăm năm sau
    Có người trì giới
    Tu tạo phước đức
    Gặp chương cú này
    Cũng có khả năng
    Sinh được tín tâm
    Điều này là thật
    Nên biết người này
    Đã trồng căn lành
    Không những ở nơi
    Một, hai, ba, bốn
    Năm đức Thế Tôn
    Mà đã ở nơi
    Vô lượng ngàn vạn
    Đức Phật như vậy
    Nên khi nghe chương
    Kinh kệ như thế
    Nhẫn đến nhất niệm
    Sinh lòng tín định.
Này thầy Thiện Hiện
Như Lai tất biết
Tất thấy người ấy
Chứng đắc như vậy
Phước đức vô lượng.
Vì sao như vậy?
Vì những chúng sinh
Không còn tướng ngã
Không còn tướng nhơn
Không tướng chúng sinh
Không tướng thọ giả
Không còn chấp pháp
Lại cũng không chấp
Tướng chẳng phải pháp.

  • Vì sao như vậy?
    Vì chúng sinh ấy
    Nếu tâm chấp tướng
    Tức bị dính mắc
    Vào tướng ngã, nhơn
    Chúng sinh, thọ giả
    Nếu chấp tướng pháp
    Tức bị dính mắc
    Vào tướng ngã, nhơn
    Chúng sinh, thọ giả
    Tại sao như vậy?
    Chấp tướng phi pháp
    Tức bị dính mắc
    Vào tướng ngã, nhơn
    Chúng sinh, thọ giả
    Vì vậy cho nên
    Không nên thủ pháp
    Cũng không chấp thủ
    Vào tướng phi pháp.
Bởi chính nghĩa này
Như Lai thường nói
Các thầy Tỳ kheo
Phải biết rõ rằng
Những pháp ta nói
Cũng như thuyền bè
Dùng để sang sông
Pháp còn phải xả
Huống hồ phi pháp.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Sinh thật tín: Sinh lòng tin thật, nghĩa là tin tự tánh vốn thanh tịnh, không hư vọng, không bị sai lạc bởi biến kế ở chấp.
  2. Chủng chư thiện căn: Trồng các căn lành. Căn lành thì phi thiện ác, chính là diệu dụng của bản thể.
  3. Nhất niệm sinh tịnh tín: Nhất niệm sinh lòng tin sạch. Nhất niệm là niệm thuần nhất, là chánh niệm bởi tuệ giác được tại.
  4. Vô pháp tướng: Không tướng pháp, nghĩa là đối với tất cả pháp không khởi tâm kiến lập.
  5. Vô phi pháp tướng: Không kiến lập tướng phi pháp nghĩa là: không rơi vào ngoan không, cũng không rơi vào trầm không trệ tịch của thiền định sai lạc.
  6. Như phiệt dụ giả: Như thuyền bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè lại. Pháp là phương tiện để giúp cho hành giả thú hướng đến giác ngộ giải thoát, và mỗi khi đã sống được tính giác rồi thì bỏ pháp.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Phật dạy tâm vô sở trụ chính là tu nhân vô tướng, mới thành tựu quả vô tướng. Nhân vô tướng, nghĩa này rất sâu mầu nêm thầy Thiện Hiện sợ rằng, sau khi Phật diệt độ chúng sinh nghe được chương cú này khó sinh được tín tâm. Nên Phật dạy: "Sau thời tượng pháp (tức mạt pháp) nếu có người xuất gia tu trì giới đức, thì đối với thật nghĩa của kinh này cũng sinh được tín tâm". Vì sao? Vì những người này đã gieo trồng căn lành nơi nhiều đức Phật rồi. Bởi vậy cho nên chúng sinh nào sinh lòng tin trong sạch, tức tâm vô sở trụ, mới khế hợp với trí Bát nhã và được phước đức vô lượng. Vì sao được phước đức vô lượng? Vì phước đức này chính là phước đức tính, tức vượt khỏi tư duy hữu ngã (xả liễu ngã pháp). Bởi do xả sạch ngã pháp nên không lấy gì để đo lường được, nên gọi là vô lượng.

Do xóa sạch vọng kiến, cho nên tướng pháp và tướng phi pháp đều không, như dùng thuyền bè để sang sông, mỗi khi qua được bờ bên kia rồi thì bỏ bè lại, cũng như mây tan chính là trời vậy, chứ không khởi ý tìm trời nữa.

Tổ sư đã dùng hình ảnh bóng trăng và dòng nước, cũng như bầu trời và áng mây để chỉ bản thể tịch chiếu:
  • Ngàn sông có nước ngàn sông trăng
    Muôn dặm không mây muôn dặm trời.
Nếu còn bị kẹt vào tướng pháp tức rơi vào biên kiến: đoạn thường, có không, thật giả v.v... Nếu còn bị kẹt vào tướng phi pháp tức rơi vào ngoan không, hoặc rơi vào trần không trệ tịch của thiền định sai lạc.

Vì vậy cho nên, hành giả phải sạch hết sở kiến mới khế hợp với thực tại tuệ giác, mới vỡ lẽ "vô đắc vô thuyết".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VII. VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT
- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề da? Như Lai hữu sở thuyết pháp da?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp danh A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, diệc vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết. Hà dĩ cố?

- Như Lai sở thuyết pháp giai bất khả thủ, bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp. Sở dĩ giả hà?

- Nhứt thiết Hiền thánh giai dĩ, vô vi pháp nhi hữu sai biệt.
  • Dịch nghĩa:

    KHÔNG ĐẮC CŨNG KHÔNG NÓI
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Như Lai có đắc
Đạo quả Vô thượng
Bồ đề hay chăng?
Như Lai có pháp
Để nói ra chẳng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Như ý con hiểu
    Nghĩa của Phật nói
    Không có pháp gì
    Nhất định gọi là
    Vô thượng Bồ đề
    Lại cũng không có
    Pháp gì nhất định
    Để Như Lai nói.
Vì sao như vậy?
Vì như lời dạy
Của đức Như Lai
Không thể chấp thủ
Không thể tỏ bày
Là chẳng phải pháp
Chẳng phải phi pháp.

  • Vì sao như vậy?
    Hết thảy Thánh hiền
    Đều lầy vô vi
    Làm pháp tu hành
    Nhưng chỗ chứng đắc
    Lại có sai khác.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Vô đắc vô thuyết: Không được gì cả, cũng không có pháp gì được nói ra.
  2. Vô hữu định pháp: Không có pháp gì nhất định, nên nói pháp chẳng qua là giả lập mà thôi.
  3. Phi pháp, phi phi pháp:Chẳng pháp chẳng không pháp, tức là lìa hẳn bốn tướng: ngã, nhơn, chúng inh, thọ giả nên không rơi vào kiến lập: có không, đoạn thường, thật giả v.v... Cũng không rơi vào trầm không trệ tịch.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đến đoạn này Phật phá chỗ nghi của đại chúng là Phật có chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác và có thuyết giảng chánh pháp. Phật hỏi thầy Thiện Hiện: "Như Lai có đắc Vô thượng Bồ đề, và có thuyết giảng pháp chăng?".

Thầy Thiện Hiện thưa: "Theo ý con hiểu nghĩa của Phật dạy là: Không có pháp gì quyết định gọi là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng không có pháp gì được nói ra", nghĩa là không có chỗ chỉ, như mây tan chính là mặt trời vậy thôi.

Đến đây sợ đại chúng bị kẹt vào ngoan không nên thầy Thiện Hiện thưa: "Như lời Phật dạy là: không thể chấp thủ, không thể tỏ bày là pháp, là chẳng pháp. Và hết thảy Thánh hiền đều lấy vô vi làm nơi thú hướng, nhưng chỗ chứng đắc lại có sai khác". Nghĩa là tâm không kiến lập tất cả pháp, không rơi vào ngoan không, cũng không rơi vào trầm không trệ tịch; mà là thường tịch thường chiếu. Đây chính là tâm vô sở trụ, nên dòng sinh diệt dừng bặt. Tâm không còn thi vi tạo tác nên gọi là vô vi.

Đó cũng là nghệ thuật chuyển thức thành trí bằng vô công dụng hạnh, bằng sở quán không, nên năng quán đi vào tịch tịnh (năng sở song vong). Và nhờ nương vào định lực bản nhiên, tạo nên lực chuyển y nhằm quét sạch hầm sâu vô minh, làm cho tánh giác hiển lộ. Song, tùy theo lực dụng công miên mật hay giải đãi sai khác, nên lực chuyển y cũng đẩy tới những quả vị sai khác. Vì vậy cho nên, người thì vào hàng Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cho đến Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác mới hết sai biệt. Vì vậy hành giả phải y vào pháp vô vi này mà an trụ tâm, mới có cơ duyên vượt thoát sinh tử.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VIII. Y PHÁP XUẤT SINH
- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Nhược nhân mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo dĩ dụng bố thí thị nhơn sở đắc phước đức, ninh vi đa phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thị phước đức tức phi phước đức tánh, thị cố Như Lai thuyết phước đức đa".

- Nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung thọ trì, nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phúc thắng bỉ. Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề! Nhứt thiết chư Phật cập chư Phật A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề pháp, giai tùng thử kinh xuất. Tu Bồ Ðề! Sở vị Phật pháp giả tức phi Phật pháp.
  • Dịch nghĩa:

    Y PHÁP XUẤT SINH
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Nếu có người đem
Bảy món quý báo
Đầy khắp ba nghìn
Đại thiên thế giới
Dùng để bố thí
Thử xem người này
Được phước nhiều chăng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch Phật, thật nhiều
    Vì sao bảo nhiều?
    Vì phước đức ấy
    Tức chẳng phải là
    Thật tính phước đức
    Vì vậy cho nên
    Như Lai nói rằng
    Được nhiều phước đức.
Nếu lại có người
Thọ trì kinh này
Nhẫn đến thọ trì
Chỉ một bài kệ
Vỏn vẹn bốn câu
Rồi vì người khác
Thuyết giảng cho họ
Thì phước đức này
Vượt thắng người trước.
Vì sao như thế?

  • Này thầy Thiện Hiện
    Hết thảy chư Phật
    Và pháp vô thượng
    Chánh đẳng chánh giác
    Của chư Thế Tôn
    Đều từ thật nghĩa
    Trong kinh này ra.
    Này thầy Thiện Hiện
    Pháp mà Phật nói
    Tức không ở nơi
    Pháp tướng nói ra.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Thất bảo: Bảy món quý báu như: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách.
  2. Tam thiên đại thiên thế giới: Lấy núi Tu Di làm trung tâm, chung quanh có bảy núi và tám biển, lại có núi Thiết Vi làm bức thành bao quanh ở ngoài, đó gọi là một tiểu thế giới. Gộp một ngàn tiểu thế giới lại thì thành một tiểu thiên thế giới. Gộp một ngàn tiểu thiên thế giới lại thì thành một trung thiên thế giới. Gộp một ngàn trung thiên thế giới lại thì thành đại thiên thế giới. Tam thiên đại thiên thế giới là cách gọi của ba loại: tiểu thiên, trung thiên và đại thiên.
  3. Phước đức tính: Tính phước dức do vô công dụng hạnh mà thành tựu.
  4. Tứ cú kệ: Bài kệ bốn câu, tức bốn thứ tình chấp của tâm: một là có, hai là không, ba là cũng có cũng không (tư tưởng lập lường), bốn là không có không không.

    Lìa được bốn thứ chấp thủ ở trên thì tứ cú có nghĩa là:
    1. Tâm quảng đại: Là tâm rỗng lặng rộng lớn, trùm khắp mười phương, xuyên suốt ba thời(1).
    2. Tâm đệ nhất: Là tâm rời khỏi đối đãi hai bên(2).
    3. Tâm bình thường: Là tâm không thi vi tạo tác, không sinh diệt biến đổi, mà thường tịch, thường chiếu.
    4. Tâm không điên đảo: Là tâm không dựng lập bởi biến kế sở chấp, bởi tư duy hữu ngã với những mơ mộng tơ tưởng triền miên, những lý luận dài dòng.
  5. Phật pháp giả tức phi Phật pháp: Phật pháp ấy tức chẳng phải Phật pháp, nghĩa là pháp mà Phật nói ở đây chính là tâm ly tưởng (phi tương lượng), chứ không phải ở lời nói, không nơi pháp tướng nói ra.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này Phật so sánh phước đức về bố thí hữu vi với người thọ trì kinh Kim Cương. Phật dạy: "Cho dù đem đồ bảy báu đầy khắp ba ngàn thế giới rộng lớn ra để bố thí, tuy phước đức lớn nhưng không hợp với phước đức tính, nên không hợp với đạo giải thoát".

Bởi thật tính phước đức chính là sống đúng với bản giác thường nhiên, nên khế hợp với trí Bát nhã, mới vượt thoát được sinh tử khổ đau. Vì vậy cho nên, chỉ có người nào ở nơi thật nghĩa của kinh này mà thọ trì, nhẫn đến chỉ thọ trì bài kệ bốn câu thôi, thì người này vượt thắng người trước. Vì cớ sao? Vì bố thí thuộc hữu vi, cho dù nhiều đến cỡ nào đi nữa, cũng chỉ có hạn lượng, và không thể giúp người vượt thoát sinh tử.

Còn người ở nơi kinh này thọ trì, cho dù chỉ thọ bài kệ bốn câu, tức xả ly tứ cú, nên thành tựu tâm quảng đại, tâm đệ nhất, tâm bình thường, tâm không điển đảo; rồi nói cho người khác rõ thật nghĩa của kinh tức tự tha lưỡng lợi, thì phước đức này vượt thắng phước đức trước. Vì vậy cho nên đức Phật dạy: "Hết thảy chư Phật và Pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác của các đấng Thế Tôn đều từ thật nghĩa ở trong kinh này mà ra, nghĩa là pháp Như Lai nói không ở pháp tướng nói ra"(ly tưởng).

Bởi vậy ly tưởng nên tâm vô sở trụ, vì tâm vô sở trụ nên vượt thoát sầu bi khổ ưu não, ra khỏi sinh tử luân hồi. Tâm không, nên thường tịch thường chiếu, mới khế hợp với trí tuệ Bát nhã "Bát nhã vô tri, vô sở bất tri, Bát nhã vô kiến, vô sở bất kiến" tức đạt thành chánh biến tri với tuệ giác thực tại, thành tựu vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì vậy cho nên, Phật dạy: "không phải ở nơi pháp tướng nói ra", tức không nơi vọng tâm giả lập, không kẹt vào vô ký không, cũng không dật dờ huyền ảo, mà ở nơi "nhất tướng vô tướng" vậy.

GHI CHÚ:

(1) Thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương.

(2) Tâm tuyệt đãi, chủ bạn cụ túc.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

IX. NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG
- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Tu Ðà Hoàn năng tác thị niệm: ngã đắc Tu Ðà Hoàn quả phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tu Ðà Hoàn danh vi Nhập lưu, nhi vô sở nhập, bất nhập sắc, thanh, hương,vị, xúc, pháp, thị danh Tu Ðà Hoàn".

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Tư Ðà Hàm năng tác thị niệm: ngã đắc Tư Ðà Hàm quả phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tư Ðà Hàm danh Nhất Vãng lai, nhi thiệt vô vãng lai, thị danh Tư Ðà Hàm".

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? A Na Hàm năng tác thị niệm: ngã đắc A Na Hàm quả phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? A Na Hàm danh vi Bất lai, nhi thiệt vô bất lai, thị danh A Na Hàm".

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? A La Hán năng tác thị niệm: ngã đắc A La Hán đạo phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thiệt vô hữu pháp danh A La Hán. Thế Tôn! Nhược A La Hán tác thị niệm: ngã đắc A La Hán đạo; tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

Thế Tôn! Phật thuyết ngã đắc vô tránh tam muội, nhơn trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A La Hán. Thế Tôn, ngã bất tác thị niệm, ngã thị ly dục A La Hán. Thế Tôn! Ngã nhược tác thị niệm: ngã đắc A La Hán đạo. Thế Tôn tức bất thuyết Tu Bồ Ðề thị nhạo A Lan Na hạnh giả. Dĩ Tu Bồ Ðề thiệt vô sở hành, nhi danh Tu Bồ Ðề, thị nhạo A Lan Na hạnh".
  • Dịch nghĩa:

    NHẤT TƯỚNG LÀ KHÔNG TƯỚNG
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Bậc Tu Đà Hoàn
Có thể nói rằng
Ta chứng được quả
Tu Đà Hoàn chăng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch đức Thế Tôn!
    Không thể nghĩ vậy
    Vì sao không nghĩ?
    Vì Tu Đà Hoàn
    Gọi là vị Thánh
    Đã được vào dòng
    Nhưng không chỗ nào
    Chẳng dính vào sắc,
    Thanh, hương, vị, xúc
    Chẳng dính pháp trần
    Thì mới được gọi
    Thánh Tu Đà Hoàn.
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Bậc Tư Đà Hàm
Có thể nghĩ rằng
Ta chứng được quả
Tư Đà Hàm chăng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch đức Thế Tôn!
    Không thể nghĩ vậy
    Vì sao không nghĩ?
    Vì Tư Đà Hàm
    Gọi là vị Thánh
    Một lần đến đi
    Mà thật chẳng có
    Tướng đến và đi
    Mới được gọi là
    Thánh Tư Đà Hàm.
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Bậc A Na Hàm
Có thể nghĩ rằng
Ta chứng được quả
A Na Hàm chăng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch đức Thế Tôn!
    Không thể vậy được
    Vì sao không được?
    Vì A Na Hàm
    Gọi là vị Thánh
    Với tên không lại
    Thật không chẳng lại
    Vì thế cho nên
    Gọi A Na Hàm.
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Bậc A La Hán
Có thể nghĩ rằng
Ta chứng được quả
A La Hán chăng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch đức Thế Tôn!
    Không nghĩ vậy được
    Vì sao không được?
    Vì thật chẳng có
    Pháp A La Hán.
    Bạch đức Thế Tôn!
    Nếu A La Hán
    Mà còn nghĩ rằng
    Ta có chứng được
    Quả A La Hán
    Tức còn chấp thủ
    Ngã, nhân, chúng sinh
    Và tướng thọ giả.
    Bạch đức Thế Tôn!
    Phật bảo con được
    Tam muội không tranh
    Là bậc a La Hán
    Lìa hẳn tham dục
    Bậc nhất trên đời.
    Con thì không nghĩ
    Con là A La Hán
    Lìa hẳn tham dục.
Bạch đức Thế Tôn!
Nếu con còn nghĩ
Là con chứng được
Quả A La Hán
Thì đức Thế Tôn
Không bảo con rằng
Thiện Hiện thích tu
Hạnh không trần cấu
Nhưng Thiện Hiện này
Sạch hết sở hành
Phật mới bảo con
Thiện Hiện thích tu
Hạnh A Lan Na.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Tu Đà Hoàn: Là phiên âm từ tiếng Phạn Srotapanna, dịch nghĩa là Dự lưu (dự vào dòng thánh), cũng dịch là ngược dòng sinh tử (nghịch lưu).
  2. Tư Đà Hàm: Là phiên âm từ tiếng Phạn Skardagāmin, dịch nghĩa là Nhất vãng lai.
  3. A Na Hàm: Là phiên âm từ tiếng Phạn Anāgāmin ānagāmi, dịch là Bất lai (không lại).
  4. A La Hán: Là phiên âm từ tiếng Phạn Arahant, dịch nghĩa là Sát tặc (giết giặc phiền não), cũng dịch là Ứng cúng, nghĩa là được trời người cúng dường, cũng dịch là Vô sinh, nghĩa là chấm dứt sinh tử luân hồi.
  5. Vô tránh tam muội: Là tam muội không tranh, đây là chánh định cao tột, vì đã xả ly bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả nên không còn tranh chấp.
  6. A lan na hạnh: Là hạnh không còn nhiễm ô loạn động, không còn bị trần duyên câu thúc mà được tự do tự tại.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Ở đoạn trước, đức Phật dạy: "Ở nơi quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác thật chẳng đắc gì?". Vì vậy cho nên, đại chúng phát nghi là đã từng nghe Phật nói có bốn quả thánh Thanh văn, sao nay Phật lại nói chẳng có đắc gì? Đức Phật hiểu được chỗ nghi hoài nghi của đại chúng, nên gạn hỏi thầy Thiện Hiện về sở hành và chỗ chứng đắc của bốn bậc thánh Thanh văn.
  1. Quả Dự lưu (quả Tu Đà Hoàn): Nghĩa là đã dự vào dòng thánh, cũng gọi là nghịch lưu (ngược dòng sinh tử). Quả vị này dứt bỏ được kiến hoặc trong ba cõi, lội ngược dòng đời, nghĩa là chẳng trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sinh vọng tâm. Vị này, từng bước đi về giải thoát giác ngộ, và chỉ có tâm xả ly chứ chẳng có chỗ nhập. Cũng bởi không có chỗ nhập, nên mới được gọi là dự vào dòng thánh; còn nếu có chỗ nhập tức bị dính mắc vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả thì đang ở địa vị phàm phu vậy. Phàm và thánh khác nhau ở chỗ tâm còn chấp trước hay không mà thôi.
  2. Quả Tư Đà Hàm: Nghĩa là hành giả đã cắt bỏ được tham, sân, si (ba đây buộc ràng), thoát hẳn ba cõi (dục, sắc và vô sắc), đã giải trừ được căn bản phiền não (mười món có năng lực sai sử, cũng gọi là thập sử). Vị này luôn sống đúng năm nhân cách căn bản và mười điều thiện, nên được tựtại ở trong nhân gian hoặc ở cõi trời. Vì vậy cho nên, gọi là bậc vãng lai, thật chẳng có chỗ đi lại, mà chỉ có tâm xả ly.
  3. Quả A Na Hàm: Là bậc ở bên trong không còn tham dục, bên ngoài không còn đắm cảnh (tâm cảnh câu quyên), vì vậy cho nên không bị ba cõi dục, sắc, vô sắc câu thúc, nên gọi Bất lai, thật chẳng có chỗ lại.
  4. Quả A La Hán: Là hành giả đạt thành tâm cảnh nhất như, nên không còn lý luận tranh chấp, không còn thuận nghịch phân ranh, không bị được mất hơn thua, vinh nhục sai sử. Đến quả vị này thì: sinh đã tận, lậu đã tận, đã sạch hết phiền não, nên cũng gọi là sát tặc (giết giặc phiền não), gánh nặng đã để xuống, thoát hẳn luân hồi nên cũng gọi là vô sinh. Vị này được trời, người cúng dường nên cũng gọi là bậc ứng cúng, dã thành tựu tuệ giác cứu cánh, nhưng thật ra trong tâm vị ấy không còn thi vi tạo tác gì cả, tức đã sạch hết sở hành.
Tóm lại, sự chứng đắc bốn quá thánh Thanh văn tuy có sai biệt, nhưng tâm xả ly của những vị ấy là một, nên chẳng vị nào còn khởi niệm thấy mình chứng đắc nọ kia. Vì nếu tâm còn thấy mình chứng đắc nọ kia, tức bị dính mắc vào bốn tướng nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả. Song, tâm hành ở đây chính là xả ly không năng sở. Vì xả ly không năng sở, nên "Đắc vô sở đắc, Thuyết vô sở thuyết", cũng được gọi là nghệ thuật "Trang nghiêm Tịnh Độ" vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

X. TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ
Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Ðăng Phật sở, ư pháp hữu sở đắc phủ?"

- Phất dã, Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Ðăng Phật sở, ư pháp thật vô sở đắc.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Bồ Tát trang nghiêm Phật độ phủ?

- Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm thị danh trang nghiêm.

- Thị cố, Tu Bồ Ðề! Chư Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm; bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.

Tu Bồ Ðề! Thí như hữu nhân thân như Tu Di sơn vương. Ư ý vân hà? Thị thân vi đại phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Thậm đại, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân".
  • Dịch nghĩa:

    TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ
Phật bảo Thiện Hiện
Ý thầy Thế nào?
Như Lai thuở trước
Nơi Nhiên Đăng Phật
Đem tâm cầu pháp
Có được gì chăng?

  • Bạch đức Thế Tôn
    Không được gì cả
    Như Lai ở chỗ
    Đức Phật Nhiên Đăng
    Tâm đối với pháp
    Thật chẳng được gì.
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Là bậc Bồ tát
Thật có trang nghiêm
Cõi nước Phật chăng?

  • Bạch đức Thế Tôn
    Chẳng trang nghiêm gì
    Vì sao như vậy?
    Trang nghiêm cõi Phật
    Tức chẳng trang nghiêm
    Gọi là trang nghiêm.
Vì vậy cho nên
Này thầy Thiện Hiện
Chư Bồ tát lớn
Nên y như vậy
Sinh tâm thanh tịnh
Không nên trụ vào
Hình sắc sinh tâm
Không nên trụ thanh,
Hương, vị, xúc, pháp
Mà sinh vọng tâm.
Nên không chỗ trụ
Mà sinh tâm ấy.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Thí như có người
    Thân như núi chúa
    Tu Di cao lớn
    Ý thầy thế nào?
    Thân ấy lớn chăng?
Thầy Thiện Hiện thưa:
Bạch đức Thế Tôn
Thân ấy rất lớn
Nghĩa ấy thế nào
Vì Phật thường dạy
Rốt ráo vô ngã
Mới gọi thân lớn
(Phi thân thị danh đại thân).

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Nhiên Đăng Phật: Đức Phật Nhiên Đăng, một vị Phật đời quá khứ.
  2. Trang nghiêm: Trang nghiêm cõi Phật gồm có:

    - Tô điểm và trang sức cho đẹp bằng những thứ thuộc vật chất, như xây chùa, tạo tượng, trang thiết nơi thờ Phật, thờ Bồ tát và thánh hiền tăng.
    - Dùng công đức phước trí như tu thiền, tu tịnh, tụng kinh niệm Phật, bái sám, trì chú, giữ gìn trai giới, cúng dường, bố thí, phóng sinh để làm an lạc thân tâm và lợi ích cho coi nước.
  3. Tịnh Độ: Cõi nước sạch đẹp và thanh tịnh, nơi không bị năm thứ uế trược (ngũ trược) làm ô nhiễm.

    Trang nghiêm Tịnh Độ có ba cách:
    1. Trang nghiêm theo pháp thế gian: Bằng cách làm chùa, đúc chuông, tô đắp tượng Phật, Bồ tát, sao chép kinh điển, bố thí cúng dường, làm lợi về phương diện vật chất.
    2. Có tâm "Thượng cung, hạ kính" đối với mọi người, không phân biệt giai cấp, địa vị, giàu nghèo, sang hèn, Tăng hay tục.
    3. Thực hành Giới, định, tuệ, làm cho thân tâm thanh tịnh (Muốn được Tịnh Độ nên tịnh tâm mình, tùy tâm thanh tịnh cõi Phật mới tịnh).
  4. Tu Di Sơn vương: Núi chúa Tu Di, Trung Hoa dịch là Diệu Cao Sơn. Núi này cao đến tám muôn bốn ngàn do tuần, mỗi do tuần bằng mười dặm, một dặm bằng tám câu lô xá, mỗi câu lô xá dài bằng âm thanh tiếng trâu lớn rống từ xa. Tu Di Sơn xung gọi là Ngũ Tu Di, tức biểu trưng cho thân năm ấm, dụ cho tâm chấp thủ ngã pháp.
  5. Phi thân thị danh đại thân: Phi thân là xả sách tâm chấp thủ ngã pháp, nên mới gọi là thân lớn không ngằn mé, tức đạt được pháp thân vô tướng.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Ở đoạn trước đức Phật nêu lên bốn quả Thanh văn làm cho đại chúng khởi nghi là: Đức Phật Thích Ca xưa kia đem tâm cầu pháp nơi Phật Nhiên Đăng có chỗ chứng đắc, và có chỗ sở đắc thì cũng phải có cõi Phật để trang nghiêm? Phật hiểu rõ chỗ nghi của đại chúng, nên gạn hỏi thầy Thiện Hiện rằng: "Phật có sở đắc không? Thật có trang nghiêm cõi Phật không?"

Thầy Thiện Hiện thưa: "Bạch đức Thế Tôn, chẳng đắc gì cả, cũng chẳng trang nghiêm gì. Vì sao như vậy? Vì trang nghiêm cõi Phật tức chẳng trang nghiêm, gọi là trang nghiêm".

Bởi nếu tâm có sở đắc, tức chỉ đắc vọng và tâm bị bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả khống chế. Vì lẽ ấy cho nên: "nơi tâm cầu pháp thật chẳng đắc gì?" Bởi chẳng đắc gì nên chẳng khởi ý trang nghiêm, mới thật trang nghiêm cõi Phật tự tâm. Vì cõi Phật là cõi tịnh, và muốn làm cho tâm thanh tịnh thì chẳng khởi vọng tâm.

Ở kinh Duy Ma, đức Phật dạy: "Muốn được Tịnh độ, nên tịnh tâm mình, tùy tâm thanh tịnh, cõi Phật mới tịnh".

Phật dạy các Bồ tát lớn, không nên ở nơi sáu trần mà khởi vọng tâm; tức không đối cảnh sanh tình, bởi sanh tình thì bị tình thức cuốn vào dòng sinh tử của muôn kiếp lạnh lùng, với đầy khổ lụy bi ai.

Không khởi vọng tâm, tức tâm không chỗ trụ nên được thông lưu. Phật lấy núi chúa Tu Di cao tám muôn bốn ngàn do tuần để dụ cho cái tâm chấp ngã, chấp pháp của chúng sinh. Núi Tu Di cũng được gọi là Ngũ Tu Di, tức thân năm ấm của chúng sinh. Khởi tâm chấp vào năm thụ uẩn, tạo thành tám muôn bốn ngàn trần lao phiền não. Từ tình thức chấp thủ ngã và pháp, kết thành bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, rồi sinh vọng tâm phân biệt "ta và của ta, ta và khác ta", để rồi mãi trôi vào tâm sinh diệt của muôn kiếp luân hồi.

Vì vậy cho nên trong kinh Đại Tạng, đức Phật cùng dạy: Chúng sinh do động cơ chấp thủ ngã pháp, nên bị đọa vào ba biển lớn (tham, sân, si) không cùng tận, để mãi ở trong địa ngục vô gián. Đem tâm chấp thủ, lập trước vật, tức bị dính mắc vào năm thủ uẩn (danh sắc) tạo thành mười tám giới phân biệt, nên kinh nói "Địa ngục lớn thì có mười tám chỗ, kế đó có năm trăm chỗ, không lường sự khổ sở".

Mười tám giới phân biệt ở trong tâm địa của chúng ta, nó khống chế gian hãm không cho chúng ta được tự do tự tại. Bởi không có ai câu thúc chúng ta suốt đêm ngày bằng những hành tướng tâm lý phụ tùng (biến kế sở chấp) xấu ác ở trong tâm chúng ta.

Đó chính là địa ngục, tức là chỗ bất xứng ý. Đời không bao giờ như ý, mà ý cũng chẳng như đời, nên tự mình tạo thành địa ngục trần gian, giam hãm tâm mình trong được mất, hơn thua, thương ghét, thân thù v.v... Mỗi khổ này được mệnh danh là "Trần sa hoặc" nghĩa là phiền não khổ đau nhiều như cát bụi.

Và mỗi khi thấu rõ những nỗi thống khổ ấy, chúng ta mới tìm cách vượt ra, mới bắt đầu hướng đến giải thoát giác ngộ, hay hướng đến cõi Tịnh độ của tự tâm, hay cách trang nghiêm cõi lòng thanh tịnh. Bởi có trang nghiêm cõi lòng thanh tịnh, thì sóng đời trong chúng ta mới dừng vỗ. Và mỗi khi làn sóng tâm dừng bặt, thì hai chấp mới chấm dứt (nhị chấp vĩnh đoạn), mới đạt được pháp thân lớn không ngằn mé (phi thân thị danh đại thân). Đây là nghệ thuật nuốt núi Tu Di, tức "chiếu kiến ngũ uẩn giai không" nghĩa là xả sạch chấp thủ ở nơi danh sắc (ngũ uẩn). Vì "phước đức vô vi vượt thắng tất cả".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XI. VÔ VI PHÚC THẮNG
- Tu Bồ Ðề! Như Hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà? Thị chư Hằng hà sa ninh vi đa phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! Ðản chư hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa".

- Tu Bồ Ðề! Ngã kim thiệt ngôn cáo nhữ. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, dĩ thất bảo mãn nhỉ sở hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới dĩ dụng bố thí, đắc phước đa phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn!"

Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn ư thủ kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức.
  • Dịch nghĩa:

    PHƯỚC ĐỨC VÔ VI VƯỢT THẮNG TẤT CẢ
Này thầy Thiện Hiện
Ví lấy số cát
Có trong sông Hằng
Mỗi hạt cát ấy
Là mỗi sông Hằng
Ý thầy nghĩ sao?
Số cát của trong
Những sông Hằng ấy
Có nhiều lắm chăng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch Phật nhiều lắm
    Chỉ những sông Hằng
    Đã là quá nhiều
    Không thể đếm hết
    Hà huống số cát
    Của nhiều sông Hằng.
Này thầy Thiện Hiện
Nay ta nói thật
Để thầy biết rằng
Nếu có thiện nam
Cùng người tín nữ
Đem đồ bảy báu
Nhiều như số cát
Đầy cả ba ngàn
Đại thiên thế giới
Những sông Hằng ấy
Dùng để bố thí
Được phước nhiều chăng?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch Phật nhiều lắm.
Phật bảo Thiện Hiện
Nếu có thiện nam
Cùng người tín nữ
Ở nơi kinh này
Nhẫn đến thọ trì
Bài kệ bốn câu
Rồi nói cho người
Thì những vị ấy
Được phước nhiều hơn
Phước đức người trước.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Vô vi phúc: Phước đức do xa lìa nhân chấp ngã và chấp pháp.
  2. Hằng hà sa số: Số cát trong sông Hằng ở xứ Ấn Độ. Một thành ngữ dùng để ám chỉ cho số nhiều.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật lấy số cát của một sông Hằng, rồi mỗi hạt cát dụ cho mỗi sông Hằng, rồi nhân lên để tìm số lượng cát của nhiều sông Hằng ấy thì nhiều vô số kể. Người đem đồ bảy báu nhiều như số cát trên những sông Hằng ấy đem ra bố thí thì được phước cũng rất nhiều.

Song, dù nhiều đến cỡ nào đi nữa cũng có hạn lượng, và đồ bảy báu ấy chỉ giúp cho người vượt qua được cơn đói nghèo nhất thời mà thôi, chứ không giúp người thoát khỏi luân hồi sinh tử khổ đau.

Vả lại, nếu có kẻ thiện nam cùng người tín nữ nào ở nơi kinh này, nhẫn đến chỉ nương vào bài kệ bốn câu, nhận rõ nghĩa thú, thọ trì rồi nói cho người khác nghe hiểu thọ trì, thì phước đức lớn hơn người bố thí đồ bảy báu ở trên.

Vì sao như vậy? Vì nương vào bài kệ bốn câu, tức lìa hẳn bốn thứ chấp thủ: có, không, cũng có cũng không, không có không không (ly tứ cú), sống với tâm tuyệt đãi (tâm đệ nhất, sống với tâm bình thường (tâm không thi vi tạo tác), sống với tâm không điên đão (tâm không bị biến kế sở chấp đánh lừa), trực chứng Niết bàn, chấm dứt luân hồi sinh tử khổ đau.

Phần tự lợi đã xong, rồi nói cho người tức tự tha lưỡng lợi, thì phước đức vô vi này vượt thắng tất cả. Phước đức vô vi chính là phước đức tính, tức sống với tuệ giác thực tại, nên mới xa lìa điên đão vọng tưởng, rốt ráo Niết bàn. Người nào sống được như vậy, mới thật sự là người biết "Tôn trọng chánh giáo".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Xóa, vì câu hỏi đã được di chuyển sang chỗ thích hợp.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 23/09/12 08:17 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.9 khách