PHẦN LƯỢC GIẢI
GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
KINH KIM CƯƠNG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Kinh: Tiếng Phạn gọi là Sutra, dịch âm là Tu đa la, dịch nghĩa là quán xuyến và nhiếp trì. Tâm chúng sinh nhờ nương vào sự quán xuyến và nhiếp trì bởi chánh niệm tỉnh giác, nên tâm không lưu tán vào những nẻo ác, gọi là Kinh.
Ngoài ra, nhưng lời dạy của chư Tổ được ghi lại thì gọi là Ngữ Lục, trừ kinh Pháp Bảo Đàn của đức Lục tổ Huệ Năng là do ngài di chúc lại.
Kinh mang tính khế cơ và khế lý, nghĩa là thích hợp với từng căn cơ chúng sinh, và khế hợp chân lý.
Hệ kinh điển mang tính
khế cơ được gọi là
Bất liễu nghĩa. Hệ kinh này nhằm giúp cho chúng ta hình thành cho mình một phàm tuệ, bằng chánh niệm tỉnh giác, hầu thấu rõ mọi hoành tung thiện ác, để chúng ta chuyển hóa thân tâm và ngoại tại, nhằm đem lại sự bình ổn, sự tươi mát, an lạc và hạnh phúc cho cuộc sống tương duyên này.
Hệ kinh điển mang tính
khế lý được gọi là
Liễu nghĩa. Hệ kinh này nhằm giúp cho chúng ta hình thành cho mình một Thánh tuệ, tức sống đúng với bản giác sẵn có xưa nay của mình, ngõ hầu mở tung mọi lầm chấp bởi thói quen dựng lập của vọng tưởng.
Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa: Là dịch âm từ tiếng Phạn Vajra Prajnā Pāramitā, gọi tắt là Kim Cương. Kim cương là loại đá quý rất rắn chắc. Nó có công năng phá hoại hết thảy mọi thứ kim loại khác, mà không có thứ kim loại nào phá hoại được nó.
Phật dùng hình ảnh
kim cương để dụ cho thứ trí tuệ Bát Nhã mà mỗi chúng sinh đều có. Thứ trí tuệ này có năng lực hóa giải hết thảy những dựng lập thuộc về tư duy hữu ngã, nhằm phá tung mọi chấp trước sai lầm của vọng tâm, hầu đưa chúng sanh thẳng đến giác ngộ.
Kinh này lấy
ví dụ và đồng thời cũng là
Pháp mà đặt tên, lấy
thật tướng làm thể, lấy
vô trụ làm
tông chỉ thú hướng, lấy sự
hóa giải mọi thứ
tri kiến lập tri làm
dụng.
Kinh này được kết tập theo ý đức Phật thuyết giảng ban đầu và ngài A Nan thuật lại, ngài Cưu Ma La Thập dịch văn Phạn sang văn Trung Quốc, và ngày nay chúng ta đang nghiên cứu bản này.
Song, muốn
thể nhập chân lý, đòi hỏi chúng ta phải sử dụng
quán chiếu Bát Nhã, nhằm dần dần thể nhập
thật tướng Bát Nhã. Và muốn được vậy, trước hết chúng ta phải nhận ra nghĩa thú của kinh, rồi mới áp dụng hành trì.
Ngược lại, nếu chỉ lo tìm hiểu văn từ ngữ nghĩa, rồi tích tập cho đầy trí nhớ; mà không quán chiếu hành trì, thì chẳng khác nào đi tìm mùi vị của bánh vẽ, tự bản thân không thể giải trừ được những chấp thủ sai lầm thâm căn cố đế của vọng tâm, và khó mà thành tựu giải thoát giác ngộ. Rất mong hành giả liễu tri cho.
LƯỢC GIẢI
I. PHÁP HỘI NHÂN DO
Như thị ngã văn:
Nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Ðộc viên dữ đại Tỳ kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu. Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạn thực ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.
- Dịch nghĩa:
NHÂN DO PHÁT KHỞI HỘI BÁT NHÃ
Tôi nghe như vầy,
Vào một lúc nọ
Đức Phật hiện trú
Ở nước Xá Vệ
Trong khu vườn cây
Do Cấp Cô Độc
Cùng với Kỳ Đà
Tạo lập cúng Phật
Với chúng đệ tử
Một nghìn hai trăm
Năm chục Tỳ kheo
Cùng đến hội họp.
- Bấy giờ là lúc
Gần giờ ngọ trai
Nên đức Thế Tôn
Đắp y cầm bát
Vào trong thành lớn
Của nước Xá Vệ
Theo pháp khất thực.
Ở trong thành ấy
Thứ lớp khất thực
Rồi lại trở về
Chỗ cũ thọ trai.
- Ngọ trai vừa xong
Đức Phật giải y
Thu dọn bát pháp
Rửa sạch đôi chân
Trải tòa ngồi nghỉ.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
- Như thị: Như vậy, y như vậy, không sai khác thực tại. Nói sao nghe vậy, nghe sao nói vậy, thấy như thật thấy, nghe như thật v.v...
- Kỳ thọ, Cấp Cô Độc viên: Cây cảnh thì của Thái tử Kỳ Đà cúng dường, còn vườn đất thì do ông Cấp Cô Độc bỏ vàng mua lại của Thái tử Kỳ Đà. Một người cúng cây cảnh, một người cúng vườn đất để lập tịnh xá cúng dường đức Phật và giáo đoàn.
- Thứ đệ khất thực: Pháp khất thực của đức Phật là theo thứ lớp từng nhà một để khất thực, chứ không lựa chọn giàu nghèo sang hèn, bởi chính tâm bình đẳng của Phật vậy.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Thể hiện cuộc sống chánh niệm tỉnh giác, chính là thực hiện nghệ thuật sống tốt đẹp nhất của đấng giác ngộ. Ở nơi tâm thể thường nhiên ngang qua bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi một cách nhẹ nhàng khoan thai và siêu thoát. Một cuộc sống không vồn vã hấp tấp, không ôm đồm tham đắm; mà thể hiện tâm bình thường thanh thoát và chính cái
"Tâm bình thường là đạo" vậy.
Hằng ngày, đức Phật đi khất thực khi gần giờ ngọ trai, và theo thứ lớp mà khất thực một cách ung dung tự tại, chứ không sanh tâm phân biệt, lựa chọn giàu nghèo, sang hèn. Thọ trai xong, Phật giải ý, cất bát, rồi rửa sách tay chân, trải tòa ngồi nghỉ.
Cuộc sống thường nhiên của đức Phật nói lên tâm hành vô trụ, bởi chính thực tại tuệ giác. Đó là thiền cơ, nhằm xúc tác vào tâm hồn thầy Thiện Hiện, để thầy tác duyên thưa thỉnh đức Phật, nhằm triển khai thứ tuệ giác này cho đại chúng.
II. THIỆN HIỆN KHỞI THỈNH
Thời Trưởng lão Tu Bồ Ðề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn:
- Hi hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát! Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?
Phật ngôn: "Thiện tai! Thiện tai! Tu Bồ Ðề! Như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhử kim đế thính, đương vị nhử thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm".
- Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.
- Dịch nghĩa:
TRƯỞNG LÃO THIỆN HIỆN KHỞI THỈNH
Bấy giờ trong chúng
Trưởng lão Thiện Hiện
Từ tòa đứng dậy
Để hở vai phải
Gối phải quỳ xuống
Chấp tay thành kính
Bạch với Phật rằng:
- - Bạch đức Thế Tôn!
Thật là hiếm có
Như Lai thật khéo
Để tâm giúp đỡ
Các vị Bồ tát
Và khéo giao phó
Ân cần căn dặn
Các vị Bồ tát.
Bạch đức Thế Tôn!
Nếu có thiện nam
Cùng người tín nữ
Phát tâm vô thượng
Chánh đẳng chánh giác
Thì phải làm sao
An trụ tâm mình?
Và bằng cách nào
Hàng phục tâm ấy?
Đức Phật dạy rằng:
- Lành thay! Lành thay!
Nầy thầy Thiện Hiện
Như lời thầy nói
Như Lai thật khéo
Để tâm giúp đỡ
Các vị Bồ tát
Thật khéo giao phó
Ân cần căn dặn
Các vị Bồ tát.
Nay thầy nghe kỹ
Sẽ vì thầy nói:
- Nếu có thiện nam
Cùng người tín nữ
Phát tâm vô thượng
Chánh đẳng chánh giác
Nên như vậy trụ
Như vậy hàng phục
Cái tâm của mình.
- - Xin vâng bạch Phật!
Con muốn được nghe.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
- Thiện Hiện: Cũng gọi là Thiện Kiết, là tên dịch nghĩa do khi sinh thầy thì có những điều lành. Còn tên Tu Bồ Đề là dịch âm tiếng Phạn Subhuti. Thầy là một trong số mười vị đệ tử lớn của Phật, và thầy có sở trường giải Không đệ nhất, nên cũng gọi là Không Sanh.
- Trưởng lão: Những vị đã trưởng thành trong chánh pháp gọi là Trưởng lão. Trưởng lão ở đây là căn cứ vào dạo lực, đạo phong, vào quả vị tu chứng; chứ không phải căn cứ vào tuổi tác, bằng cấp, địa vị. Thầy Tu Bồ Đề cũng được gọi là Trưởng lão Tu Bồ Đề.
- Thế Tôn: Là đấng mà cả thế gian đều tôn kính. Đó là một trong mười danh hiệu của một vị Phật.
- Như Lai: Tiếng Phạn là Tathagata, là một trong mười danh hiệu của một vị Phật. Như Lai là nương vào như thật mà thành chánh giác, cho nên đoạn sau đức Phật dạy: "Không từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai"
- Thiện hộ niệm: Khéo nhớ nghĩ đến để giúp đỡ và bảo hộ cho hàng Bồ tát tấn tu.
- Thiện phó chúc: Khéo dặn dò, nhắc nhở và giao phó pháp lớn cho hàng Bồ tát lớn từ Bát địa trở lên.
- Bồ tát: Dịch âm tiếng Phan Bodhisattva (Bô-đi-sát-toa). Dịch nghĩa là giác hữu tình, nghĩa là giác ngộ những thứ tình thức biến dạng liên tục bởi vọng tâm, và phát nguyện rộng lớn để độ thoát chúng sinh.
- A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề: Là dịch âm tiếng Phạn Anuttara Samyak Sambodhi: A dịch là Vô, Nuttara dịch là thượng, Sam dịch là chánh, Yak dịch là đẳng, Sam dịch là chánh, Bodhi dịch là giác. Là sự giác ngộ tột cùng không có gì so sánh được, chỉ cho trí giác ngộ của chư Phật, nó rời khỏi mọi cặp phạm trù đối đãi hai bên bởi thứ tri kiến chúng sinh. Bởi bản chất của các pháp là lìa khỏi mọi cặp phạm trù đối đãi của vọng tâm. "Nhất thiết pháp tùng bản dĩ lai, ly danh tự tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng, vô hữu biến dị, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố danh chân như"(1).
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Sống chánh niệm tỉnh giác là thể hiện oai nghi tế hạnh của một vị Tỳ kheo trong cuộc sống thường nhiên. Vì vậy cho nên, thực hiện đạo phong:
Trên cung dưới kính, hòa kỷ hòa tha, khiêm hạ thanh nhàn, tịnh tâm và giải thoát", là cách sống thiện lành nhất.
Trên cung là thể hiện sự cung kính đối với những bậc thánh nhân, những bậc thầy đáng kính, cung kính những bậc tiền bối mà mình đã mang ơn. Dưới kính là thể hiện sự tương kính đối với những vị dưới mình như sư em, đệ tử, con cái, người giúp việc v.v... Thể hiện sự tương kính là một đức tính tốt đẹp, nhằm xóa đi những dị biệt do tính cống cao ngã mạn tự đắc gây nên, tạo tiền đề ngăn cách giữa mình và người khác. Hòa kỷ là tự thân mình không bị đầu độc bằng xì ke, ma túy, thuốc lá, rượu v.v... Không tự mình nuôi dưỡng những tâm lý không lành mạnh, tạo thành động cơ dẫn đến sầu bi khổ ưu não. Hòa tha là biết thực hiện hành động tương tức, nhằm lành mạnh hóa thân tâm mình và tha nhân cũng như môi trường sống.
Khiêm hạ là thể hiện đức tính khiêm cung, tự hạ mình xuống để học hỏi lẫn nhau trong cuộc sống trùng duyên này. Thanh nhàn là thể hiện tâm thái thanh thoát và nhẹ nhàng trong mọi hành vi cử chỉ. Tịnh tâm và giải thoát là không để cho tâm trôi về quá khứ và tương lai, hoặc bị dính mắc trong hiện tại. Sống đúng với tuệ giác thực tại, nên tâm không bị mê muội dật dờ, hay bị trói buộc.
Thể hiện nhân cách viên mãn ấy chính là thầy Thiện Hiện (Tu Bồ Đề). Thầy có cái danh "Không Sanh" mà "không chẳng sanh", nên đứng dậy thành kính thể hiện đầy đủ oai nghi tế hạnh của một vị Tỳ kheo, đảnh lễ đức Phật rồi thưa thỉnh, tác duyên để Phật chỉ rõ ra (khai thị) nghệ thuật an trụ tâm và hàng phục tâm cho đại chúng.
- "Bạch đức Thế Tôn, có kẻ thiện nam cùng người tín nữ phát tâm Bồ đề, thì phải làm sao an trụ tâm mình và bằng cách nào hàng phục tâm ấy".
Thầy Thiện Hiện hỏi cách an trụ và cách hàng phục tâm, thì được đức Phật dạy: "Có kẻ thiện nam cùng người tín nữ phát tâm Bồ đề, nên như vậy trụ,
như vậy hàng phục tâm ấy".
Như vậy nghĩa là không thêm không bớt, mà chỉ là "cái nghe bằng chính cái nghe, cái thấy bằng chính cái thấy, cái ngửi bằng chính cái ngửi v.v...", tức "như thị" mà không khởi vọng tâm thêm bớt (chấp thủ, lập trước vật). Vì sao như vậy? Vì sinh tâm chấp thủ, lập trước vật chính là thói quen dựng lập của tư duy hữu ngã. Tự thân nó mang tính cục bộ chủ quan áp đặt của vọng thức lên thực tại, chứ không phải là bản thân thực tại. Bởi thực tại là "như thị", nên
"không thể dùng văn tự để diễn bày, không thể dùng lời tiếng để nói phô, không thể dùng tâm duyên để nhận chân", mà
"nên như vậy trụ, như vậy hàng phục tâm ấy". Bởi an trụ tâm là để tâm thể nhập vô thượng chánh đẳng chánh giác, và hàng phục tâm là để cho tâm không bị giao động tán loạn. Vì vậy cho nên, người phát tâm Bồ đề là trên cầu trí giác vô thượng, dưới hóa độ tất cả chúng sinh, và khi nào chúng sinh tâm (tức vọng tưởng) được hóa sạch thì trí giác ngộ mới hiện bày. Vọng thức hay tri kiến chúng sinh, chính là động cơ tạo thành chuỗi dài sinh diệt trong tự tâm, làm cho tâm mãi trôi dài trong dòng samsāra (dòng luân chuyển) vô tận, để rồi phải nhận lấy hệ quả sầu bi khổ ưu não triền miên. Nay được đức Phật khai thị nghệ thuật an trụ tâm và hàng phục tâm bằng "như thị", tức thực hiện nghệ thuật sống lìa bỏ mọi chấp thủ của tình thức, của vọng tưởng thuộc về tư duy hữu ngã, thuộc về biến kế sở chấp
(2).
Chúng ta thấy rằng, nhân loại ngày nay có những mối bất hòa, là do bởi mỗi người tự phó thác cho tình thức của mình điều khiển. Mỗi khi tình thức ấy không được soi sáng bởi tuệ giác và không được hướng dẫn bởi tình thương thì con người tự làm khổ mình, khổ người. Những cuộc chiến tranh đã diễn ra trên mọi chiến trường, đâu không phải là do tình thức cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi của con người cộng lại? Mọi giải pháp hòa giải dựa trên tình thức, chỉ đem lại hòa bình nhất thời mà thôi. Vì vậy cho nên, đức Phật dạy: "Tâm bình thì thế giới bình". Và muốn cho tâm bình, thì phải biết cách an trụ tâm và hàng phục tâm. Để nhận rõ thêm nghệ thuật an trụ và hàng phục này, thầy Thiện Hiện thưa:
"Xin vâng bạch Phật! Con muốn nghe".
GHI CHÚ:
(1) "Hết thảy các pháp, từ trong bản chất nó lìa tướng danh tự, lìa tướng nói năng, lìa tường tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi chân như". Trích từ Luận Đại Thừa Khởi Tín của ngài Mã Minh.
(2) Tình thức có công năng chấp trước vào hiện tượng giới để tạo thành vọng tâm chủ quan (biến kế sở chấp, tức hiện tiền lập trước vật).