Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.7
Đã gửi: 07/08/12 09:46
I. Tiểu sử Ngài A Nan
A Nan, viết cho đủ là A Nan Ðà, phiên âm chữ Phạn Ananda, dịch nghĩa là Khánh Hỷ, là em họ con nhà chú của Thái tử Tất Ðạt Ða. Hai năm sau khi Ðức Phật thành Ðạo, ông A Nan cùng với năm Hoàng Tử xin xuất gia theo Phật tu hành. Ông thông minh xuất chúng, chăm chỉ học hành, không bao lâu sau khi nghe một bài pháp của Ðại Ðức Purna Maitrayaniputra (Phú Lâu Na), ông đắc quả Tu Ðà Hoàn, dịch nghĩa là Nhập Lưu, nhập vào dòng Thánh.
II. Ngài A Nan làm Thị giả
Khi Ðức Phật được 55 tuổi, cần một thị giả để hầu bên cạnh Phật làm giúp những việc thường ngày, tất cả các đệ tử đều xin được hân hạnh phục vụ, nhưng Phật khước từ, muốn dành việc này cho ông A Nan, vì biết có duyên lành từ trước. Ông A Nan xin nhận việc này với tám điều thỉnn cầu:
1) Ðức Phật không ban cho ông những bộ y do thiện tín dâng cúng Phật.
2) Ðức Phật không ban cho ông những vật thực do thiện tín cúng Phật.
3) Đức Phật không cho phép ông cùng ở trong một tịnh thất.
4) Ðức Phật không cho phép ông đến nơi nào thí chủ thỉnh Phật.
5) Ðức Phật sẽ hoan hỷ đi cùng ông đến nơi nào thí chủ thỉnh ông.
6) Ðức Phật cho phép ông tiến dẫn khách đến yết kiến Phật.
7) Ðức Phật cho phép ông bạch hỏi mỗi khi có điều nghi ngờ
8) Ðức Phật sẽ hoan hỷ lập lại những bài Pháp mà Phật giảng trong lúc ông không có mặt tại đó.
Sở dĩ ông A Nan yêu cầu tám điều này là để tránh sự ganh tỵ trong hàng đệ tử Phật có thể dị nghị Phật ưu đãi ông vì thương yêu hơn người khác, hoặc vì có liên bệ họ hàng mà đối xử đặc biệt với ông. Ðức Thế Tôn chấp thuận tám lời thỉnh cầu đó và ông A Nan trở thành thị giả thường xuyên hầu cận Phật trong suốt 25 năm trường. Như bóng theo hình, ông theo Phật đi khắp mọi nơi, chăm sóc mọi nhu cầu của Phật, nhờ đó được nghe những bài thuyết pháp của Phật.
Ông học rộng nghe nhiều nên được Phật công nhận là đa văn bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử. Ông có trí nhớ dai lạ thường, dù không ghi chép bằng chữ viết mà ông nhớ được tất cả những lời Phật nói, cho nên trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Phật nhập diệt, ông được mời ra nói lại những lời Phật dạy, họp lại thành Kinh Tạng. Chữ Ngã trong bốn chữ Như Thị Ngã Văn (Ðúng thực tôi nghe) mở đầu mỗi bộ kinh là chỉ ông A Nan.
III. Có nhiều chuyện liên quan tới ông A Nan:
1) Ông có dung nhan đẹp đẽ nên bị nàng Ma Ðăng Già dùng tà chú mê hoặc, nhờ Phật sai Bồ Tát Văn Thù đem bài thần chú Thủ Lăng Nghiêm tới giải cứu.
2) Ông chuyên học rộng nhớ nhiều nhưng kém phần tu chứng, trong Kinh Lăng Nghìêm, Ðức Phật nhiều lần chỉ Tâm cho ông tỏ ngộ.
3) Ông thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ được gia nhập Giáo Hội, nhờ vậy bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề (Maha Pajapati, dì của Thái Tử Tất Đạt Ða), bà Da Du Ðà La (Yasodhara, vợ của Thái Tử) cùng một số phụ nữ được xuất gia làm Tỳ Kheo Ni, do đó các Tỳ Kheo Ni đều biết ơn và kính trọng ông.
Một lần nọ, ông bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, chúng con phải đối xử với phụ nữ như thế nào?
- Này A Nan, dường như không trông thấy.
- Nếu đã trông thấy rồi, chúng con phải làm thế nào?
- Này A Nan, không nên nói chuyện.
- Nếu được hỏi. chúng con phải làm sao?
- Phải cẩn thận đề phòng, giữ vững chánh niệm.
Mặc dù học rộng nghe nhiều nhớ dai, ông A Nan vẫn chưa đắc quả A La Hán khi Ðức Phật nhập diệt. Trong khi đó, nhiều đệ tử Phật học kém, ít thông minh, nhưng nhờ công phu tu hành tinh tấn, được giác ngộ đắc quả A La Hán. Ðến khi kết tập kinh điển lần thứ nhất gồm toàn các vị A La Hán, ông không được mời dự. Ông liền tận lực tu thiền định và đắc quả A La Hán trong đêm trước ngày khai mạc hội nghị khi nghiêng mình nằm xuống, không phải trong tư thế đi đứng ngồi nằm. Nhờ chứng quả mà ông được vào dự hội nghị, đóng vai trò quan trọng trong việc kết tập Kinh Tạng.
VI. Pháp thân Phật
Khi ông A Nan nói: thân Ðức Thế Tôn hơi có bệnh, là ý muốn nói về Ứng Thân, nhục thân, có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thị hiện ra đời như một người thường, nên có lúc khỏe mạnh, có lúc đau yếu bị bệnh. Còn Cư Sĩ Duy Ma Cật lại ám chỉ Pháp Thân bất hoại, là thể kim cang, làm sao bị bệnh được. Kim cang là một kim loại rất cứng không thứ gì làm vỡ nó được, mà nó lại hay phá vỡ các chất cứng khác, kim cang cũng rất quý giá, trong sạch, chiếu sáng.
Pháp Thân Phật rộng lớn trang nghiêm rực rỡ chiếu sáng không thể nghĩ bàn, cho nên ví thân Phật như kim cang, quý nhất trong các chất cứng, sáng nhất trong các vật chiếu sáng, ý nói thân Phật tốt đẹp không gì bằng, vô lậu vô vi, thân như thế làm sao có bệnh được?
Ðức Phật thường được tôn xưng là Vô Thượng Y Vương, chữa khỏi các bệnh cho chúng sinh, không ai hơn được. Nay nếu nói Phật bị bệnh thì có thể làm cho người ngoại đạo chê cười: Sao gọi là Thầy, bệnh của mình không cứu nổi mà cứu được bệnh người khác ư? Thật ra, tôn hiệu Vô Thượng Y Vương dùng đề xưng tán Phật chữa được các tâm bệnh của chúng sinh bằng các pháp môn thù thắng, khiến họ hết khổ được an vui, giải thoát khỏi mọi phiền não trói buộc, tâm ý được tự tại thảnh thơi. Còn thân bệnh thì phải trị bằng thuốc men. ông A Nan nói về thân bệnh, Ứng Thân Phật do bốn chất (tứ đại) hòa hợp mà thành nên có lúc bị bệnh như người thường, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật nói Pháp Thân, không phải thân tư dục là thân do tư tưởng ái dục duyên hợp mà có.
Vô lậu là không còn rơi rớt, không tạo nghiệp chướng rơi rớt vào trong ba cõi luân hồi.
Vô vi là không làm, không tạo tác, an nhiên tự tại, bất sinh bất diệt.
Không mắc vào các số lượng: số lượng ám chỉ số tuổi, số năm tháng ngày giờ dài ngắn, số thước tấc rộng hẹp. Không mắc vào các số lượng là không bị hạn chế trong thời gian và không gian, nghĩa là Pháp Thân Phật rộng lớn vô lượng vô biên, thọ mạng tuổi thọ cũng vô hạn. Ðức Phật A Di Ðà có danh hiệu là Vô Lượng Thọ, tuổi thọ dài vô lượng, ám chỉ Pháp Thân.
Trên hư không có tiếng nói: đây có thể là tiếng nói của một vị Phật, một vị Bồ Tát, một vị Trời, cũng có thể là muốn diễn tả tiếng nói của Chân Tâm từ chỗ cao siêu huyền diệu phát ra để nhắc ông A Nan sự sai khác giữa Pháp Thân và Ứng Thân.
Pháp Thân thì không bệnh, nhưng Ứng Thân thị hiện ở đời thì cũng bị luật vô thường chi phối: sinh, già, bệnh, chết, nhục thể Phật tuy tốt đẹp nhưng cũng bị bệnh như mọi người khác. Nhục thể có bệnh cần sữa để trị thì cứ lấy sữa mà dùng, chớ có thẹn.
V.Kết luận
Ðây là một đoạn kinh rất hay, lời lẽ tuy có phần hơi gay gắt nhưng chứa đầy tình thương rộng rãi bao la, hướng dẫn người chưa hiểu biết quay về lẽ phải, toàn là những lời lẽ xây dựng, giúp đỡ, cảnh tỉnh. Ðây là những phương tiện dung hòa mọi tư tưởng, quy ba thân về một thân, Tướng Tánh Thể Dụng là một. Sự Lý nhất như, không còn phân biệt.
Ðứng về Tướng và Dụng thì Ứng Thân có bệnh, đứng về Tánh và Thể thì Pháp Thân không bệnh, mà chính là Thật Tướng bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh.
A Nan, viết cho đủ là A Nan Ðà, phiên âm chữ Phạn Ananda, dịch nghĩa là Khánh Hỷ, là em họ con nhà chú của Thái tử Tất Ðạt Ða. Hai năm sau khi Ðức Phật thành Ðạo, ông A Nan cùng với năm Hoàng Tử xin xuất gia theo Phật tu hành. Ông thông minh xuất chúng, chăm chỉ học hành, không bao lâu sau khi nghe một bài pháp của Ðại Ðức Purna Maitrayaniputra (Phú Lâu Na), ông đắc quả Tu Ðà Hoàn, dịch nghĩa là Nhập Lưu, nhập vào dòng Thánh.
II. Ngài A Nan làm Thị giả
Khi Ðức Phật được 55 tuổi, cần một thị giả để hầu bên cạnh Phật làm giúp những việc thường ngày, tất cả các đệ tử đều xin được hân hạnh phục vụ, nhưng Phật khước từ, muốn dành việc này cho ông A Nan, vì biết có duyên lành từ trước. Ông A Nan xin nhận việc này với tám điều thỉnn cầu:
1) Ðức Phật không ban cho ông những bộ y do thiện tín dâng cúng Phật.
2) Ðức Phật không ban cho ông những vật thực do thiện tín cúng Phật.
3) Đức Phật không cho phép ông cùng ở trong một tịnh thất.
4) Ðức Phật không cho phép ông đến nơi nào thí chủ thỉnh Phật.
5) Ðức Phật sẽ hoan hỷ đi cùng ông đến nơi nào thí chủ thỉnh ông.
6) Ðức Phật cho phép ông tiến dẫn khách đến yết kiến Phật.
7) Ðức Phật cho phép ông bạch hỏi mỗi khi có điều nghi ngờ
8) Ðức Phật sẽ hoan hỷ lập lại những bài Pháp mà Phật giảng trong lúc ông không có mặt tại đó.
Sở dĩ ông A Nan yêu cầu tám điều này là để tránh sự ganh tỵ trong hàng đệ tử Phật có thể dị nghị Phật ưu đãi ông vì thương yêu hơn người khác, hoặc vì có liên bệ họ hàng mà đối xử đặc biệt với ông. Ðức Thế Tôn chấp thuận tám lời thỉnh cầu đó và ông A Nan trở thành thị giả thường xuyên hầu cận Phật trong suốt 25 năm trường. Như bóng theo hình, ông theo Phật đi khắp mọi nơi, chăm sóc mọi nhu cầu của Phật, nhờ đó được nghe những bài thuyết pháp của Phật.
Ông học rộng nghe nhiều nên được Phật công nhận là đa văn bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử. Ông có trí nhớ dai lạ thường, dù không ghi chép bằng chữ viết mà ông nhớ được tất cả những lời Phật nói, cho nên trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Phật nhập diệt, ông được mời ra nói lại những lời Phật dạy, họp lại thành Kinh Tạng. Chữ Ngã trong bốn chữ Như Thị Ngã Văn (Ðúng thực tôi nghe) mở đầu mỗi bộ kinh là chỉ ông A Nan.
III. Có nhiều chuyện liên quan tới ông A Nan:
1) Ông có dung nhan đẹp đẽ nên bị nàng Ma Ðăng Già dùng tà chú mê hoặc, nhờ Phật sai Bồ Tát Văn Thù đem bài thần chú Thủ Lăng Nghiêm tới giải cứu.
2) Ông chuyên học rộng nhớ nhiều nhưng kém phần tu chứng, trong Kinh Lăng Nghìêm, Ðức Phật nhiều lần chỉ Tâm cho ông tỏ ngộ.
3) Ông thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ được gia nhập Giáo Hội, nhờ vậy bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề (Maha Pajapati, dì của Thái Tử Tất Đạt Ða), bà Da Du Ðà La (Yasodhara, vợ của Thái Tử) cùng một số phụ nữ được xuất gia làm Tỳ Kheo Ni, do đó các Tỳ Kheo Ni đều biết ơn và kính trọng ông.
Một lần nọ, ông bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, chúng con phải đối xử với phụ nữ như thế nào?
- Này A Nan, dường như không trông thấy.
- Nếu đã trông thấy rồi, chúng con phải làm thế nào?
- Này A Nan, không nên nói chuyện.
- Nếu được hỏi. chúng con phải làm sao?
- Phải cẩn thận đề phòng, giữ vững chánh niệm.
Mặc dù học rộng nghe nhiều nhớ dai, ông A Nan vẫn chưa đắc quả A La Hán khi Ðức Phật nhập diệt. Trong khi đó, nhiều đệ tử Phật học kém, ít thông minh, nhưng nhờ công phu tu hành tinh tấn, được giác ngộ đắc quả A La Hán. Ðến khi kết tập kinh điển lần thứ nhất gồm toàn các vị A La Hán, ông không được mời dự. Ông liền tận lực tu thiền định và đắc quả A La Hán trong đêm trước ngày khai mạc hội nghị khi nghiêng mình nằm xuống, không phải trong tư thế đi đứng ngồi nằm. Nhờ chứng quả mà ông được vào dự hội nghị, đóng vai trò quan trọng trong việc kết tập Kinh Tạng.
VI. Pháp thân Phật
Khi ông A Nan nói: thân Ðức Thế Tôn hơi có bệnh, là ý muốn nói về Ứng Thân, nhục thân, có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thị hiện ra đời như một người thường, nên có lúc khỏe mạnh, có lúc đau yếu bị bệnh. Còn Cư Sĩ Duy Ma Cật lại ám chỉ Pháp Thân bất hoại, là thể kim cang, làm sao bị bệnh được. Kim cang là một kim loại rất cứng không thứ gì làm vỡ nó được, mà nó lại hay phá vỡ các chất cứng khác, kim cang cũng rất quý giá, trong sạch, chiếu sáng.
Pháp Thân Phật rộng lớn trang nghiêm rực rỡ chiếu sáng không thể nghĩ bàn, cho nên ví thân Phật như kim cang, quý nhất trong các chất cứng, sáng nhất trong các vật chiếu sáng, ý nói thân Phật tốt đẹp không gì bằng, vô lậu vô vi, thân như thế làm sao có bệnh được?
Ðức Phật thường được tôn xưng là Vô Thượng Y Vương, chữa khỏi các bệnh cho chúng sinh, không ai hơn được. Nay nếu nói Phật bị bệnh thì có thể làm cho người ngoại đạo chê cười: Sao gọi là Thầy, bệnh của mình không cứu nổi mà cứu được bệnh người khác ư? Thật ra, tôn hiệu Vô Thượng Y Vương dùng đề xưng tán Phật chữa được các tâm bệnh của chúng sinh bằng các pháp môn thù thắng, khiến họ hết khổ được an vui, giải thoát khỏi mọi phiền não trói buộc, tâm ý được tự tại thảnh thơi. Còn thân bệnh thì phải trị bằng thuốc men. ông A Nan nói về thân bệnh, Ứng Thân Phật do bốn chất (tứ đại) hòa hợp mà thành nên có lúc bị bệnh như người thường, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật nói Pháp Thân, không phải thân tư dục là thân do tư tưởng ái dục duyên hợp mà có.
Vô lậu là không còn rơi rớt, không tạo nghiệp chướng rơi rớt vào trong ba cõi luân hồi.
Vô vi là không làm, không tạo tác, an nhiên tự tại, bất sinh bất diệt.
Không mắc vào các số lượng: số lượng ám chỉ số tuổi, số năm tháng ngày giờ dài ngắn, số thước tấc rộng hẹp. Không mắc vào các số lượng là không bị hạn chế trong thời gian và không gian, nghĩa là Pháp Thân Phật rộng lớn vô lượng vô biên, thọ mạng tuổi thọ cũng vô hạn. Ðức Phật A Di Ðà có danh hiệu là Vô Lượng Thọ, tuổi thọ dài vô lượng, ám chỉ Pháp Thân.
Trên hư không có tiếng nói: đây có thể là tiếng nói của một vị Phật, một vị Bồ Tát, một vị Trời, cũng có thể là muốn diễn tả tiếng nói của Chân Tâm từ chỗ cao siêu huyền diệu phát ra để nhắc ông A Nan sự sai khác giữa Pháp Thân và Ứng Thân.
Pháp Thân thì không bệnh, nhưng Ứng Thân thị hiện ở đời thì cũng bị luật vô thường chi phối: sinh, già, bệnh, chết, nhục thể Phật tuy tốt đẹp nhưng cũng bị bệnh như mọi người khác. Nhục thể có bệnh cần sữa để trị thì cứ lấy sữa mà dùng, chớ có thẹn.
V.Kết luận
Ðây là một đoạn kinh rất hay, lời lẽ tuy có phần hơi gay gắt nhưng chứa đầy tình thương rộng rãi bao la, hướng dẫn người chưa hiểu biết quay về lẽ phải, toàn là những lời lẽ xây dựng, giúp đỡ, cảnh tỉnh. Ðây là những phương tiện dung hòa mọi tư tưởng, quy ba thân về một thân, Tướng Tánh Thể Dụng là một. Sự Lý nhất như, không còn phân biệt.
Ðứng về Tướng và Dụng thì Ứng Thân có bệnh, đứng về Tánh và Thể thì Pháp Thân không bệnh, mà chính là Thật Tướng bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh.