ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991
III. PHẨM ĐỆ TỬ
I.
Ðại Mục Kiền Liên, phiên âm chữ Phạn Maha Moggalyana, trước tu theo Bà La Môn giáo cùng với ông Xá Lợí Phất, sau đó được nghe bài kệ Nhân Duyên của Phật dạy, cả hai ông liền tới xin quy y, tinh tấn tu hành, ông Xá Lợi Phất được trí huệ bậc nhất, ông Mục Kiền Liên được thần thông bậc nhất trong các hàng Thanh Văn.
II.
Ðại Mục Kiền Liên hằng ngày vào thành khất thực đồng thời nói pháp cho các cư sĩ nghe. Ông học được giáo lý của Phật rồi cứ theo đó mà nói lại cho mọi người nghe.
Thế mà Cư Sĩ Duy Ma Cật lại bảo: không phải như ông nói đó. Vậy ông Mục Kiền Liên nói sai chăng? Ông Mục Kiền Liên lập lại những lời Phật dạy, dùng lời nói mà thức tỉnh chúng sinh, nhưng đó chỉ là những phương tiện tương đối để đưa đến Chân Lý chứ không phải là Chân Lý tuyệt đối.
Chữ PHÁP mà trưởng giả Duy Ma Cật muốn nói phải được viết bằng chữ in hoa, đó là Chân Lý tuyệt đối, là Phật Tri Kiến, là Phật Tánh Chân Tâm, là Bản Thể Chân Như, là Bản Lai Diện Mục, là KHÔNG...
Nếu hiểu theo nghĩa này thì Pháp lìa ngôn ngữ văn tự tâm duyên không thể nói được, không phải như ông Mục Klên Liên nói ra, không phải những Kinh sách chúng ta thường đọc.
III.
Nói pháp phải đúng như pháp, đúng với Chân Lý, xứng tánh mà nói, nghĩa là Pháp như thế nào thì nói y như thế (Như Thị), đừng để tâm so sánh thêm bớt, xứng tánh là đúng với bản tánh chân thật (Phật Tánh) sẵn có nơi mọi loài chúng sinh, nói pháp một cách tự nhiên vô ngại, vô phân biệt coi đó là bổn phận phải làm, không vì danh lợi hoặc lời khen, hoặc phẩm vật cúng dường, ví như mặt trời ban ánh sáng không phân biệt quốc gia chủng tộc. Trong nghi thức tụng niệm có câu: Xứng tánh tác Phật sự là theo nghĩa đó.
IV.
Kinh sách thường dạy: Pháp Nhĩ Như Thị (Dharmata), nghĩa là Chân Lý lúc nào cũng như vậy, không thay đổi theo thời gian và không gian, không đối đãi so sánh, vì là Tuyệt Ðối rồi.
Mọi chúng sinh đều có Phật Tánh, muốn chúng sinh nghe pháp cho có lợi lạc thì phải nói đúng với Chân Lý, hợp với Phật Tánh, đó là đứng về Tánh mà luận. Nếu đứng về Tánh thì không còn có bốn tướng: Ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng. Pháp là Bản Thể tuyệt đối thì làm gì có ta có người, có chúng sinh, có thọ mạng. Không có ta có người có chúng sinh có thọ mạng thì làm gì còn sinh tử luân hồi, làm gì còn làn trước làn sau. Cứ dựa theo cái lý Pháp là Bản Thể tuyệt đối thì tất cả các câu sau đều hiểu được dễ dàng: Pháp thường vắng lặng, bặt hết các tướng... cho đến câu pháp lìa tất cả quán hạnh.
V.
Thưa Ngài Ðại Mục Kiền Liên, Pháp Tướng như thế đâu có thể nói được. Pháp Tướng đây là Thật Tướng, Vô Tướng, Phi Tướng, như Kinh Kim Cang có câu: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như Lai, nghĩa là mọi vật có hình tướng đều là giả huyễn, nếu thấy được cái Phi Tướng (Tướng Không) của mọi sự mọi vật thì thấy được Chân Lý. Ðã là Không, là Tuyệt Ðối thì sao có thể dùng lời nói mà diễn tả được.
VI.
Người nói pháp không nói không dạy, còn người nghe cũng không nghe không được, câu này tổng kết tóm lược tất cả ý đoạn kinh vừa học. Nếu đứng về Bản Tánh mà nói thì Chân Lý không sao diễn tả bằng lời nói được, nói mà không nói, dạy mà không dạy, nghe mà không nghe, được mà không được. Hơn nữa, chẳng có người nói, chằng có người nghe, chẳng thấy pháp được nói, được nghe (tam luân không tịch), đúng như lời Phật nói: "Trong 49 năm, ta chưa hề nói lời nào." Kinh Kim Cang có câu: Nếu nói rằng Như Lai có thuyết pháp thì người ấy khinh báng Phật. Như Lai nói thuyết pháp, không có pháp gì có thể nói, ấy gọi là thuyết pháp.
VII.
Nhưng e chúng sinh không hiểu, rồi bỏ không nói, không dạy, không nghe, không học, không tu, nên Kinh dạy tiếp: ví như nhà huyễn thuật nói pháp cho người huyễn hóa nghe, phải dụng tâm như thế mà nói pháp.
Ở thế gian thì phải dùng phương tiện để đạt cứu cánh, dùng lời nói để thuyết giảng cho mọi người thấu hiểu Chân Lý, phải tu hành để chứng ngộ đạt đạo giải thoát.
Tuy biết là huyễn nhưng lấy huyễn, dùng huyễn để tới Chân Lý (dĩ huyễn độ chân), đạp gai lấy gai mà nhổ, biết mọi pháp ở thế gian đều là giả huyễn, nhưng vẫn nói, vẫn dạy, vẫn độ chúng sinh: đó là dùng huyễn pháp, độ huyễn nhân, đắc huyễn quả, nương cái giả để tới cái thật, lìa sự tướng nhập Pháp Tánh.
Bồ Tát biết tất cả là giả mà vẫn làm, vì khi biết giả là cái chân thật tự nhiên hiện ra, phải tìm cái Chân nơi cái giả, lìa giả không tìm được Chân, lìa sóng không tìm ra nước, phải hiểu biết và dụng tâm như thế mà nói pháp.
VIII.
Phải biết căn cơ của chúng sinh có lợi độn... cho đến câu như vậy mới nên nói pháp: đây là phần thực hành. Sau khi nắm vững lý thuyết, bước sang phần thực hành, trở về đời sống thế gian thì việc nói pháp làm lợi ích chúng sinh cần phải hợp căn cơ
Chúng sinh: căn tánh chúng sinh có lợi độn, hoàn cảnh có thuận nghịch, người nói pháp phải tùy thuận chúng sinh và hoàn cảnh, lúc nói lý nói sự, lúc nói cao nói thấp, lúc dùng phương tiện ẩn dụ, lúc nói thẳng Phật Thừa, chúng sinh nhiều bệnh thì pháp dược nhiều phương, tùy bệnh cho thuốc, thì chúng sinh mới tuân phục, vui vẻ mà nghe theo.
Thí dụ: nói pháp cho người xuất gia và tại gia phải khác nhau. Nói với người xuất gia phải dạy đời là khổ cần chán lìa, bỏ gia đình vào chùa tu, rời bổn phận xã hội (kiếm tiền, đóng thuế, đi lính...), nhớ ơn Phật, ơn Thầy, ơn cha mẹ, ơn thí chủ, quyết chí tu hành để làm phước điền cho mọi người.
Còn nói với người tại gia thì cũng dạy đời là khổ nhưng biết khổ để tu tâm dưỡng tánh, không lìa bỏ gia đình xã hội mà vẫn tự tu tự học, hành Bồ Tát Ðạo, tự lợi tự tha, cúng dường Tam Bảo để hưởng phước báo mà không bỏ lòng cầu Vô Thượng Bồ Ðề, tu Lục Ðộ, phá mọi chấp trước, hiểu luật vô thường, lý vô ngã, tuy sống ở thế gian mà vẫn hướng về quả vị giải thoát.
Người nói pháp phải nắm vững lý pháp Không, pháp chỉ là phương tiện dùng xong rồi bỏ, như qua sông bỏ bè, thì không bị pháp làm trở ngại.
IX.
Lấy tâm đại bi khen ngợi pháp Ðại Thừa, nghĩa là nói pháp vì lòng đại bi thương xót chúng sinh, muốn thức tỉnh chúng sinh quay về bờ giác, tu tới khi thành Phật chứ không ích kỉ mong giải thoát riêng mình, dùng cỗ xe lớn để đưa tất cả chúng sinh tới chỗ giác ngộ hoàn toàn, chứ không dừng bước nửa đường hoặc quay trở lại.
X.
Nghĩ nhớ đền trả ơn Phật. Phật làm ơn không cầu báo, nhưng các đệ tử Phật có bổn phận nghĩ nhớ đền trả ơn Phật, mà Ðức Thế Tôn không còn ở thế gian thì trả ơn cách nào? Xây chùa, tạo tượng, in kinh, cúng hoa quả, thắp hương nến, cúng tiền... chỉ là hình thức bề ngoài. Muốn đền trả ơn Phật một cách đúng đắn nhất là y theo lời Phật dạy, tinh tấn tu hành để giác ngộ và giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Cứu độ chúng sinh tức là cúng dường mười phương chư Phật.
XI.
Chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất. Tam Bảo là Ba Ngôi Báu Phật Pháp Tăng. Ðứng về Sự thì Phật là Ðức Thích Ca, Pháp là những lời Phật dạy, những kinh sách phương pháp tu hành, Tăng là những đệ tử Phật xuất gia tu hành giữ gìn đầy đủ giới luật, tuân theo Lục Hòa, thay mặt Phật ở thế gian để hướng dẫn mọi người tu học. Ðứng về Lý thì Phật là sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn, Pháp là sự từ bi hỷ xả, Tăng là sự hòa hợp, thanh tịnh, nhu nhuyễn. Tất cả đức tánh này đều đầy đủ nơi Phật cũng như nơi chúng sinh, không hơn không kém.
XII.
Sau các khóa lễ tụng kinh có phần tam tự quy y, chúng ta trở về nương tựa với ba ngôi quý báu sẵn có bên trong chúng ta. Tự quy y Phật là tự mình trở về nương tựa với Phật Tánh, với sự giác ngộ giải thoát sẵn có của mình; tự quy y Pháp là tự mình trở về nương tựa với sự từ bi hỷ xả sẵn có đầy đủ trong tâm mình; tự quy y Tăng là tự mình trở về nương tựa với các đức tánh hòa hợp, thanh tịnh, nhu nhuyễn sẵn có nơi mình.
Theo nghĩa đen, chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất là đừng để cho tượng Phật, chùa chiền, kinh sách và chư Tăng không còn hiện diện ở thế gian. Nhưng hiểu theo nghĩa bóng là đừng để cho sự giác ngộ, giải thoát, từ bi hỷ xả, thanh tịnh hòa hợp nhu nhuyễn phải biến mất trong tâm chúng ta, đừng để vô minh che lấp Phật Tánh. Chúng sinh phải nối tiếp nhau tu hành để ngọn đèn Phật, đèn Tâm chiếu sáng lưu truyền vô cùng vô tận.
XIII.
Trưởng giả Duy Ma Cật kết luận: được như vậy mới nên nói pháp, làm được đầy đủ các điều kể trên thì mới đúng như Pháp: đúng với Chân Lý.
Khi ông Duy Ma Cật nói xong, tám trăm cư sĩ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tại sao chỉ có cư sĩ tại gia phát tâm mà không thấy các đệ tử xuất gia phát tâm? Kinh Duy Ma Cật nhằm vào hàng cư sĩ tại gia, khuyến khích họ hành Bồ Tát Ðạo chỉ cần chuyên tâm, tu đâu cũng được. Khi thấy ông Duy Ma Cật có biện tài khiến hai đệ tử xuất gia hạng nhất của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên phải chịu phục không đối đáp được, tám trăm cư sĩ thích thú phát tâm tu theo ông Duy Ma Cật cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðoạn kinh này không nói đến hàng xuất gia vì có lẽ các Ngài khi xuất gia đã phát tâm cầu vô thượng Bồ Ðề rồi nên không cần lập lại.
Toát yếu: Sự nói pháp của Ngài Mục Kiền Liên và Cư sĩ Duy Ma Cật.
I. Tôn giả Mục kiền Liên thần thông đệ nhất, trong hàng Thanh Văn.
II. Trưởng giả Duy Ma Cật nói về Tánh Pháp là lý tuyệt đối.
III. Nói pháp phải đúng như Pháp (kinh điển). Không vì mình, không vì người khác. Như vậy mới là nói đúng pháp.
IV. Kinh sách thường dạy chân lý không thay đổi theo thời gian và không gian, không đối đãi so sánh. (Tức là nói Pháp không dựa vào Ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng.)
V. Nghĩa: Pháp Tướng đây là Thật Tướng, Vô Tướng, Phi Tướng, như
Kinh Kim Cang có câu: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như Lai, nghĩa là mọi vật có hình tướng đều là giả huyễn, nếu thấy được cái Phi Tướng (Tướng Không) của mọi sự mọi vật thì thấy được Chân Lý. Ðã là Không, là Tuyệt Ðối thì sao có thể dùng lời nói mà diễn tả được.
VI. Nếu đứng về Bản Tánh mà nói thì Chân Lý không sao diễn tả bằng lời nói được, nói mà không nói, dạy mà không dạy, nghe mà không nghe, được mà không được.
Hơn nữa, chẳng có người nói, chằng có người nghe, chẳng thấy pháp được nói, được nghe (tam luân không tịch), đúng như lời Phật nói: "Trong 49 năm, ta chưa hề nói lời nào."
Kinh Kim Cang có câu: Nếu nói rằng Như Lai có thuyết pháp thì người ấy khinh báng Phật. Như Lai nói thuyết pháp, không có pháp gì có thể nói, ấy gọi là thuyết pháp.
VII. Tới đoạn này thì Ngài nói pháp tánh nếu không giảng bằng hình thức (sự) e chúng sinh không hiểu, rồi bỏ không nói, không dạy, không nghe, không học, không tu, nên Kinh dạy tiếp: ví như nhà huyễn thuật nói pháp cho người huyễn hóa nghe, phải dụng tâm như thế mà nói pháp.
Ở thế gian thì phải dùng phương tiện để đạt cứu cánh, dùng lời nói để thuyết giảng cho mọi người thấu hiểu Chân Lý, phải tu hành để chứng ngộ đạt đạo giải thoát.
(Chú thích: Đọc lại kỷ bài của cư sĩ tuy rằng nói Pháp tánh với Tôn giả. Nhưng sự thật là dùng sự để giảng pháp.)
VIII. Phải biết căn cơ của chúng sinh có lợi độn... cho đến câu như vậy mới nên nói pháp: đây là phần thực hành. Sau khi nắm vững lý thuyết, bước sang phần thực hành, trở về đời sống thế gian thì việc nói pháp làm lợi ích chúng sinh cần phải hợp căn cơ
Người nói pháp phải nắm vững lý pháp Không, pháp chỉ là phương tiện dùng xong rồi bỏ, như qua sông bỏ bè, thì không bị pháp làm trở ngại.
IX. Lấy tâm đại bi khen ngợi lý pháp, nghĩa là nói pháp vì lòng đại bi thương xót chúng sinh, muốn thức tỉnh chúng sinh quay về bờ giác, tu tới khi thành Phật chứ không ích kỉ mong giải thoát riêng mình, dùng cỗ xe lớn để đưa tất cả chúng sinh tới chỗ giác ngộ hoàn toàn, chứ không dừng bước nửa đường hoặc quay trở lại.
X. Nghĩ nhớ đền trả ơn Phật. Phật làm ơn không cầu báo, nhưng các đệ tử Phật có bổn phận nghĩ nhớ đền trả ơn Phật, mà Ðức Thế Tôn không còn ở thế gian thì trả ơn cách nào? Xây chùa, tạo tượng, in kinh, cúng hoa quả, thắp hương nến, cúng tiền... chỉ là hình thức bề ngoài.
Muốn đền trả ơn Phật một cách đúng đắn nhất là y theo lời Phật dạy, tinh tấn tu hành để giác ngộ và giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Cứu độ chúng sinh tức là cúng dường mười phương chư Phật.
XI. Chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất. Tam Bảo là Ba Ngôi Báu Phật Pháp Tăng. Ðứng về Sự thì Phật là Ðức Thích Ca, Pháp là những lời Phật dạy, những kinh sách phương pháp tu hành, Tăng là những đệ tử Phật xuất gia tu hành giữ gìn đầy đủ giới luật, tuân theo Lục Hòa, thay mặt Phật ở thế gian để hướng dẫn mọi người tu học. Ðứng về Lý thì Phật là sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn, Pháp là sự từ bi hỷ xả, Tăng là sự hòa hợp, thanh tịnh, nhu nhuyễn. Tất cả đức tánh này đều đầy đủ nơi Phật cũng như nơi chúng sinh, không hơn không kém.
XII. Theo nghĩa đen, chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất là đừng để cho tượng Phật, chùa chiền, kinh sách và chư Tăng không còn hiện diện ở thế gian.
Nhưng hiểu theo nghĩa bóng là đừng để cho sự giác ngộ, giải thoát, từ bi hỷ xả, thanh tịnh hòa hợp nhu nhuyễn phải biến mất trong tâm chúng ta, đừng để vô minh che lấp Phật Tánh. Chúng sinh phải nối tiếp nhau tu hành để ngọn đèn Phật, đèn Tâm chiếu sáng lưu truyền vô cùng vô tận.
XIII. Trưởng giả Duy Ma Cật kết luận: được như vậy mới nên nói pháp, làm được đầy đủ các điều kể trên thì mới đúng như Pháp: đúng với Chân Lý.
Sơ lược: Sự nói pháp của Ngài Mục Kiền Liên và Cư sĩ Duy Ma Cật
Nói Pháp trên phương diện tình và lý thì không thể bỏ lý mà lấy tình, hay lấy lý mà bỏ sự thì không phải là người nói Pháp. Bài này Cư sĩ giảng thêm về nghĩa tình lý nói pháp chớ không phải là bát bỏ Ngài Mục kiền Liên nói Pháp. Xin đừng hiểu lầm rồi hành giả sẽ kẹt vào chổ chấp của cư sĩ Duy Ma Cật.
Muốn hiểu rõ, Hành giả nên tìm hiểu về Tứ tất đàn của Thầy Thích Thái Hòa
viewtopic.php?f=69&t=8964&start=12#p71758