Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.7

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

I. Tiểu sử Ngài A Nan

A Nan, viết cho đủ là A Nan Ðà, phiên âm chữ Phạn Ananda, dịch nghĩa là Khánh Hỷ, là em họ con nhà chú của Thái tử Tất Ðạt Ða. Hai năm sau khi Ðức Phật thành Ðạo, ông A Nan cùng với năm Hoàng Tử xin xuất gia theo Phật tu hành. Ông thông minh xuất chúng, chăm chỉ học hành, không bao lâu sau khi nghe một bài pháp của Ðại Ðức Purna Maitrayaniputra (Phú Lâu Na), ông đắc quả Tu Ðà Hoàn, dịch nghĩa là Nhập Lưu, nhập vào dòng Thánh.

II. Ngài A Nan làm Thị giả

Khi Ðức Phật được 55 tuổi, cần một thị giả để hầu bên cạnh Phật làm giúp những việc thường ngày, tất cả các đệ tử đều xin được hân hạnh phục vụ, nhưng Phật khước từ, muốn dành việc này cho ông A Nan, vì biết có duyên lành từ trước. Ông A Nan xin nhận việc này với tám điều thỉnn cầu:

1) Ðức Phật không ban cho ông những bộ y do thiện tín dâng cúng Phật.
2) Ðức Phật không ban cho ông những vật thực do thiện tín cúng Phật.
3) Đức Phật không cho phép ông cùng ở trong một tịnh thất.
4) Ðức Phật không cho phép ông đến nơi nào thí chủ thỉnh Phật.
5) Ðức Phật sẽ hoan hỷ đi cùng ông đến nơi nào thí chủ thỉnh ông.
6) Ðức Phật cho phép ông tiến dẫn khách đến yết kiến Phật.
7) Ðức Phật cho phép ông bạch hỏi mỗi khi có điều nghi ngờ
8) Ðức Phật sẽ hoan hỷ lập lại những bài Pháp mà Phật giảng trong lúc ông không có mặt tại đó.

Sở dĩ ông A Nan yêu cầu tám điều này là để tránh sự ganh tỵ trong hàng đệ tử Phật có thể dị nghị Phật ưu đãi ông vì thương yêu hơn người khác, hoặc vì có liên bệ họ hàng mà đối xử đặc biệt với ông. Ðức Thế Tôn chấp thuận tám lời thỉnh cầu đó và ông A Nan trở thành thị giả thường xuyên hầu cận Phật trong suốt 25 năm trường. Như bóng theo hình, ông theo Phật đi khắp mọi nơi, chăm sóc mọi nhu cầu của Phật, nhờ đó được nghe những bài thuyết pháp của Phật.

Ông học rộng nghe nhiều nên được Phật công nhận là đa văn bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử. Ông có trí nhớ dai lạ thường, dù không ghi chép bằng chữ viết mà ông nhớ được tất cả những lời Phật nói, cho nên trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Phật nhập diệt, ông được mời ra nói lại những lời Phật dạy, họp lại thành Kinh Tạng. Chữ Ngã trong bốn chữ Như Thị Ngã Văn (Ðúng thực tôi nghe) mở đầu mỗi bộ kinh là chỉ ông A Nan.

III. Có nhiều chuyện liên quan tới ông A Nan:

1) Ông có dung nhan đẹp đẽ nên bị nàng Ma Ðăng Già dùng tà chú mê hoặc, nhờ Phật sai Bồ Tát Văn Thù đem bài thần chú Thủ Lăng Nghiêm tới giải cứu.

2) Ông chuyên học rộng nhớ nhiều nhưng kém phần tu chứng, trong Kinh Lăng Nghìêm, Ðức Phật nhiều lần chỉ Tâm cho ông tỏ ngộ.

3) Ông thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ được gia nhập Giáo Hội, nhờ vậy bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề (Maha Pajapati, dì của Thái Tử Tất Đạt Ða), bà Da Du Ðà La (Yasodhara, vợ của Thái Tử) cùng một số phụ nữ được xuất gia làm Tỳ Kheo Ni, do đó các Tỳ Kheo Ni đều biết ơn và kính trọng ông.

Một lần nọ, ông bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, chúng con phải đối xử với phụ nữ như thế nào?
- Này A Nan, dường như không trông thấy.
- Nếu đã trông thấy rồi, chúng con phải làm thế nào?
- Này A Nan, không nên nói chuyện.
- Nếu được hỏi. chúng con phải làm sao?
- Phải cẩn thận đề phòng, giữ vững chánh niệm.

Mặc dù học rộng nghe nhiều nhớ dai, ông A Nan vẫn chưa đắc quả A La Hán khi Ðức Phật nhập diệt. Trong khi đó, nhiều đệ tử Phật học kém, ít thông minh, nhưng nhờ công phu tu hành tinh tấn, được giác ngộ đắc quả A La Hán. Ðến khi kết tập kinh điển lần thứ nhất gồm toàn các vị A La Hán, ông không được mời dự. Ông liền tận lực tu thiền định và đắc quả A La Hán trong đêm trước ngày khai mạc hội nghị khi nghiêng mình nằm xuống, không phải trong tư thế đi đứng ngồi nằm. Nhờ chứng quả mà ông được vào dự hội nghị, đóng vai trò quan trọng trong việc kết tập Kinh Tạng.

VI. Pháp thân Phật

Khi ông A Nan nói: thân Ðức Thế Tôn hơi có bệnh, là ý muốn nói về Ứng Thân, nhục thân, có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thị hiện ra đời như một người thường, nên có lúc khỏe mạnh, có lúc đau yếu bị bệnh. Còn Cư Sĩ Duy Ma Cật lại ám chỉ Pháp Thân bất hoại, là thể kim cang, làm sao bị bệnh được. Kim cang là một kim loại rất cứng không thứ gì làm vỡ nó được, mà nó lại hay phá vỡ các chất cứng khác, kim cang cũng rất quý giá, trong sạch, chiếu sáng.

Pháp Thân Phật rộng lớn trang nghiêm rực rỡ chiếu sáng không thể nghĩ bàn, cho nên ví thân Phật như kim cang, quý nhất trong các chất cứng, sáng nhất trong các vật chiếu sáng, ý nói thân Phật tốt đẹp không gì bằng, vô lậu vô vi, thân như thế làm sao có bệnh được?

Ðức Phật thường được tôn xưng là Vô Thượng Y Vương, chữa khỏi các bệnh cho chúng sinh, không ai hơn được. Nay nếu nói Phật bị bệnh thì có thể làm cho người ngoại đạo chê cười: Sao gọi là Thầy, bệnh của mình không cứu nổi mà cứu được bệnh người khác ư? Thật ra, tôn hiệu Vô Thượng Y Vương dùng đề xưng tán Phật chữa được các tâm bệnh của chúng sinh bằng các pháp môn thù thắng, khiến họ hết khổ được an vui, giải thoát khỏi mọi phiền não trói buộc, tâm ý được tự tại thảnh thơi. Còn thân bệnh thì phải trị bằng thuốc men. ông A Nan nói về thân bệnh, Ứng Thân Phật do bốn chất (tứ đại) hòa hợp mà thành nên có lúc bị bệnh như người thường, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật nói Pháp Thân, không phải thân tư dục là thân do tư tưởng ái dục duyên hợp mà có.

Vô lậu là không còn rơi rớt, không tạo nghiệp chướng rơi rớt vào trong ba cõi luân hồi.
Vô vi là không làm, không tạo tác, an nhiên tự tại, bất sinh bất diệt.

Không mắc vào các số lượng: số lượng ám chỉ số tuổi, số năm tháng ngày giờ dài ngắn, số thước tấc rộng hẹp. Không mắc vào các số lượng là không bị hạn chế trong thời gian và không gian, nghĩa là Pháp Thân Phật rộng lớn vô lượng vô biên, thọ mạng tuổi thọ cũng vô hạn. Ðức Phật A Di Ðà có danh hiệu là Vô Lượng Thọ, tuổi thọ dài vô lượng, ám chỉ Pháp Thân.

Trên hư không có tiếng nói: đây có thể là tiếng nói của một vị Phật, một vị Bồ Tát, một vị Trời, cũng có thể là muốn diễn tả tiếng nói của Chân Tâm từ chỗ cao siêu huyền diệu phát ra để nhắc ông A Nan sự sai khác giữa Pháp Thân và Ứng Thân.

Pháp Thân thì không bệnh, nhưng Ứng Thân thị hiện ở đời thì cũng bị luật vô thường chi phối: sinh, già, bệnh, chết, nhục thể Phật tuy tốt đẹp nhưng cũng bị bệnh như mọi người khác. Nhục thể có bệnh cần sữa để trị thì cứ lấy sữa mà dùng, chớ có thẹn.

V.Kết luận

Ðây là một đoạn kinh rất hay, lời lẽ tuy có phần hơi gay gắt nhưng chứa đầy tình thương rộng rãi bao la, hướng dẫn người chưa hiểu biết quay về lẽ phải, toàn là những lời lẽ xây dựng, giúp đỡ, cảnh tỉnh. Ðây là những phương tiện dung hòa mọi tư tưởng, quy ba thân về một thân, Tướng Tánh Thể Dụng là một. Sự Lý nhất như, không còn phân biệt.

Ðứng về Tướng và Dụng thì Ứng Thân có bệnh, đứng về Tánh và Thể thì Pháp Thân không bệnh, mà chính là Thật Tướng bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

IV. PHẨM BỒ TÁT

Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật, Bồ Tát Di Lặc từ chối vì lúc trước Ngài nói hạnh bất thối chuyển cho các vị Vua Trời ở cõi Trời Ðâu Suất thì ông Duy Ma Cật đến hỏi về việc Ngài Di Lặc được thọ ký Bồ Ðề, ông Duy Ma Cật đứng về Pháp Tánh mà hỏi, Ngài Di Lặc sở trường tu Duy Thức là Pháp Tướng nên không trả lời được.

Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa: phiên âm chữ Phạn Bodhisatra, dịch nghĩa là Giác Hữu Tình là loài hữu tình đã giác ngộ lại hay làm cho chúng sinh cũng được giác ngộ.

Bồ Tát có 10 cấp bậc, từ Sơ Ðịa đến Thập Ðịa, cao thấp do công phu tu chứng, gồm có ba giai đoạn:
1) Bồ Tát sơ phát tâm là những người mới phát tâm tu hành theo Ðại Thừa, lấy việc lợi tha, vì người quên mình, làm phương châm.

2) Bồ Tát đã phát tâm lâu rồi, đã thâm nhập giáo lý Ðại Thừa, tu chứng các cấp Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cho đến Thập Ðịa.

3) Bồ Tát Ðẳng Giác và Diệu Giác, dứt trừ Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc là tới chỗ giác ngộ hoàn toàn thành Phật. Khi chỉ còn một đời nữa là sẽ thành Phật thì được gọi là Nhất Sinh Bổ Xứ, ví như Bồ Tát Di Lặc.

Bồ Tát còn có thể được chia làm hai loại:

1) Siêu phàm Bồ Tát là những vị Bồ Tát đã chứng quả vị cao trong Thập Ðịa, thường thị hiện ở cõi đời để dạy dỗ và hóa độ chúng sinh, dưới nhiều hình tướng, nhưng người đời chẳng ai biết đó là Bồ Tát.

2) Phàm phu Bồ Tát là những người như chúng ta, hãy còn là phàm phu nhưng phát tâm giữ giới Bồ Tát, 10 giới trọng và 48 giới khinh, tu hạnh lợi tha Ðại Thừa, diệt lòng kiêu mạn ngã chấp. Các Phật Tử xuất gia và tại gia đều có thể xin thọ giới Bồ Tát, nhưng điều cần yếu là phải dám hy sinh những gì mình có để cứu giúp chúng sinh: tiền của, thuốc men, y phục, thời giờ, kinh sách giáo lý, có khi cả một phần thân thể hay tính mạng nữa.

Hơn nữa, giữ giới Bồ Tát là bắt buộc phải ăn chay trường, vì không lẽ gì Bồ Tát còn ăn thịt chúng sinh. Ðiều căn bản của đạo Bồ Tát là tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, luôn luôn quên mình vì chúng sinh, hy sinh cá nhân mình để làm lợi ích cho chúng sinh, có làm được như vậy thì mới là giữ giới Bồ Tát một cách chân cnánh. Ðừng bao giờ coi việc thọ giới Bồ Tát như một huy chương đeo vào để được người khác khen ngợi, đừng thọ giới Bồ Tát nếu chưa ăn chay trường. Trừ trường hợp các vị đại Bồ Tát thị hiện nghịch cảnh để hóa độ nghịch duyên thì không kể.

I. Tiểu sử Đức Di Lặc

Di Lặc, phiên âm chữ Phạn Maitreya, họ Từ thị, tên là A Dật Ða (Ajita), là vị đại Bồ Tát được Ðức Thích Ca thọ ký đời sau sẽ thành Phật ở Hội Long Hoa, hiện đang tu ở cõi Trời Đâu Suất nội viện, Ngài chuyên giảng môn Duy Thức Học, phân tích tâm thức ra Tâm Vương và Tâm Sở.

Ðức Di Lặc thường thị hiện ở cõi trần để hóa độ chúng sinh, nhưng không ai hay biết, chỉ khi nào ngài thị tịch để lại bài kệ thì người ta mới biết đó là Bồ Tát Di Lặc. Một hình bóng quen thuộc nhất với chúng ta là Ngài đã thị hiện làm một vị sư mập mạp, nét mặt hoan hỷ, hay đeo một cái túi vải lớn trong đựng nhiều kẹo bánh đồ chơi phân phát cho trẻ em rồi dạy chúng niệm Phật, do đó được gọl là Bố Ðãi Hòa Thượng.

Còn đối với người lớn thì Ngài dạy môn Duy Thức, trước khi nhập diệt, Ngài để lại bài kệ cho biết Ngài là Bồ Tát Di Lặc hiện thân. Người ta thường đúc tượng Ngài Di Lặc mập mạp bụng phệ, cười hoan hỷ mặc cho sáu đứa trẻ bám quanh, một đứa chọc mắt, một đứa chọc tai, một đứa chọc mũi, một đứa chọc miệng, một đứa chọc ngực, một đứa chọc bụng, tượng trưng cho sáu thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Nếu mình để cho sáu thức đó dẫn dụ làm điều sái quấy thì sáu đứa trẻ tượng trưng cho Lục Tặc, sáu tên giặc.

Nếu biết đối trị sáu thức, kèm chặt không cho loạn động vọng niệm, chuyển Thức thành Trí, thì sáu đứa trẻ tượng trưng cho Lục Thức Tâm Vương chuyển thành Thành Sở Tác Trí và Diệu Quán Sát Trí. Thâm ý của bức tượng là Ngài Di Lặc đã chứng được Duy Thức Tánh, điều phục sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), không để sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) chi phối quyến rũ, hàng phục lục lặc, tu hành Lục Ðộ, diệt hết đau khổ vô minh, được an vui tự tại, tâm hoan hỷ.

Hạnh bất thối chuyển là tâm tu hành tinh tấn chẳng còn lui sụt chuyển rời nữa, cứ ròng rặc mà tiến tới chỗ giải thóat.

II. Ðoạn này, Cư Sĩ Duy Ma Cật

Đứng về Pháp Tánh mà luận nên không phân biệt thời gian có quá khứ, hiện lại, vị lai. Ðứng về tướng, tương đối mà nói thì thời gian vô thường, quá khứ đã qua, hiện tại không dừng, vị lai chưa đến, nếu Ngài Di Lặc còn một đời sẽ thành Phật thì là đời nào?

Ðứng về Tánh, tuyệt đối mà luận thì thời gian là vĩnh cửu, là Như. Thời gian được người đời chia ra làm giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm, thế kỷ... là do ước lệ tùy khái niệm tương đối mà đặt ra. Tháng bẩy ở Bắc Bán Cầu là mùa hè, nhưng ở Nam Bán Cầu là mùa lạnh. Ðối với người đang sung sướng thì lúc nào cũng là mùa xuân tươi vui, còn đối với người khổ đau thì ngày nào cũng là mùa đông ảm đạm buồn bã. Vậy chẳng có gì là đồng nhất cả.
Người tu hành quy tất cả về Tâm nên không phân biệt thời gian và không gian, thấy tất cả tập trung vào một điểm gọi là Ðương Xứ, vạn niên nhất niệm, đặt cả thế giới trong hạt cải (Kinh Hoa Nghiêm).

III. Ðoạn kinh sau so sánh Ngài Di Lặc với chúng sinh.

Ðứng về tướng thì Ngài Di Lặc và chúng sinh khác nhau xa, Ngài Di Lặc là vị Ðại Bồ Tát sắp thành Phật, chúng sinh là phàm phu còn sinh tử luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, nhưng đứng về Tánh thì hai bên cùng có Phật Tánh bình đẳng như nhau, là một. Ðứng về tướng thì thấy có chúng sinh để độ, có pháp môn tu, có quả vị chứng, có phát tâm bồ đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, có phân biệt pháp lành pháp dữ, có thời gian và không gian, có tâm bất thối chuyển đối với sự thối chí nản lòng của chúng sinh, có phiền não phải đoạn, có chướng ngại phải vượt qua.

Nhưng đứng về Tánh thì Ngài Di Lặc và chúng sinh đều có Trí Huệ sẵn có sáng suốt Như nhau, Di Lặc được gì thì chúng sinh được nấy, Di Lặc được diệt độ thì chúng sinh cũng diệt độ. Tánh đó rốt ráo vắng lặng, chính là Niết Bàn, vậy Ngài Di Lặc không cần phải dạy hạnh Bất Thối Chuyển nữa, vì không có thối lui, không có phân biệt, không cần phát tâm, chẳng có gì là được cả.

Chúng sinh đều có đủ Ðức Tánh Như Lai, chỉ vì mê vọng điên đảo mà tưởng là không có. Chúng sinh phân biệt bồ đề là giác đối với vô minh là mê, nhưng đứng về Tánh thì vượt qua mọi quan niệm giác mê, biết tất cả là giả, là không thật có thì chẳng còn tham đắm thủ xả, khi biết có viên ngọc báu trong túi áo thì không mong cầu, không tham đắc gì nữa.

IV. Nếu dùng vô sinh mà được thọ ký

Vô sinh là cái bất sinh bất diệt mà ai cũng có, đó là khả năng thành Phật, thì Di Lặc được thọ ký, chúng sinh cũng được thọ ký, nếu Di Lặc được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, tất cả chúng sinh cũng đều được, vì tất cả chúng sinh chính là tướng bồ đề.

Quan niệm về bồ đề của phàm phu thường là sai lầm: người tại gia thì cúng vái cầu xin, còn người xuất gia thì chắp nhặt các hình lướng, không biết tùy duyên phương tiện uyển chuyển thực hành các pháp môn, mỗi người có một quan niệm về bồ đề, mong được bồ đề, đó là còn chấp tướng, làm sao thấy bồ đề?

Cư Sĩ Duy Ma Cật lột bỏ mọi quan niệm đó, phá tướng nhập Tánh, ly các duyên, lìa vọng tưởng, thuận Chân Như, trụ Pháp Tánh, đồng hư không... Bồ Ðề chính là Bản Tâm thanh tịnh, xuất gia tại gia ai cũng sẵn có, ai cũng có khả năng đạt tới Bồ Ðề. Vậy chúng ta đừng cầu xin gì cả vì cầu được thì kiêu căng, không được thì oán hận, cứ theo luật nhân duyên mà vui với những gì mình đang có, đó là Vô Sở Cầu Hạnh.

V. Kết luận:

Tóm lại, Ngài Di Lặc đứng về Duy Thức mà phân biệt có tốt xấu lành ác, phát tâm và thối chuyển, có tu có chứng, Ngài tượng trưng cho Sai Biệt Trí, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng về Pháp Tánh, Bản Thể thì không còn phân biệt gì nữa, mà thấy tất cả Không Hai (Bất Nhị), tượng trưng cho Căn Bản Trí.

Xin đừng lầm tưởng Bồ Tát Di Lặc chỉ thâm hiểu và thực hành Duy Thức mà chưa có Trí Huệ, đoạn kinh ở đây chỉ muốn nói Thức chưa siêu việt bằng Trí, vì Thức còn phân biệt. Trí thì biết trực tiếp ngay không cần phân biệt, chứ thật ra thì Bồ Tát Di Lặc chỉ còn một đời sẽ thành Phật, chắc chắn Ngài đã đầy đủ trí huệ sáng suốt lắm rồi.

Ðoạn kinh này chỉ đưa ra hai đường lối tu hành, một theo tông phái Pháp Tướng, một theo tông phái Pháp Tánh.

Sau khi Bồ Tát Di Lặc từ chối không đi thăm bệnh, Ðức Phật bảo Ðồng Tử Quang Nghiêm đến thăm ông Duy Ma Cật, Ðồng Tử cũng từ chối, không kham lãnh nhiệm vụ vì nhớ lại ngày trước, Ðồng Tử gặp ông Duy Ma Cật, hai người luận bàn ý nghĩa của Ðạo Tràng, Ðồng Tử cảm thấy còn thấp kém thua sút nên nay không dám đi thăm bệnh.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

IV. PHẨM BỒ TÁT

I. Nghĩa Đồng Tử:

Ðồng Tử có nghĩa đen là trẻ thơ, còn có nghĩa là người tu hành từ khi còn ít tuổi, không phạm dâm dục, giữ hạnh thanh tịnh trọn đời, nhờ đó đến khi nhiều tuổi vẫn được gọi là Ðồng Tử, không nhiễm ô. Về nghĩa bóng, Ðồng Tử ở đây là người đang tu Bồ Tát Ðạo nhưng chưa giác ngộ hòan toàn, ví như trẻ thơ chưa thành người lớn, chưa trưởng thành. Cũng có nghĩa là người tu hành chân chánh, gột rửa hết các trần cấu phiền não, tâm hồn thanh tịnh sáng trong như trẻ thơ; trong Ðạo Học có câu: Ðồng Ðồng Vãng Lai, nghĩa là cùng trẻ thơ qua lại với nhau. Chữ Ðồng thứ nhất có nghĩa là cùng, chữ Ðồng thứ hai (chữ Hán viết khác nhau) là đồng tử, trẻ thơ.

Ðồng Tử Quang Nghiêm là một vị Bồ Tát tu hành chứng quả, dùng ánh sáng của trí huệ và công đức để trang nghiêm, nên có tên là Quang Nghiêm. Người đời thường dùng đồ trang sức vàng ngọc, dầu thơm, quần áo... để làm đẹp cho thân hình, thêm phần trang nghiêm oai vệ khiến người chung quanh phải nể sợ hoặc khen ngợi. Ðồng Tử Quang Nghiêm dùng trí huệ sáng suốt và công đức tu hành để trang nghiêm Pháp Thân, khiến mọi lòai chúng sinh đều kính phục. Các tranh tượng Phật và Bồ Tát thường được vẽ có hào quang quanh đầu hoặc bao trùm toàn thân, tượng trưng cho trí huệ sáng suốt thanh tịnh đối với vô minh tối tăm nhiễm ô.

Ðạo Tràng là nơi Ðức Thế Tôn thành Ðạo (Bồ Ðề Ðạo Tràng), là nơi Phật và các đệ tử cư ngụ (Trúc Lâm, Xá Vệ, Tỳ Xá Ly...),nơi truyền dạy phổ biến Phật Pháp như các chùa, các Phật Học Đường đó là những nghĩa đen.

II. Đạo tràng theo lý tánh

Nhưng ở đây, Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng về Tánh mà luận theo nghĩa bóng thì tất cả pháp đều là đạo tràng, bất cứ pháp môn hạnh tu gì làm lợi ích cho chúng sinh, đưa đến chỗ giác ngộ đều là đạo tràng, vì khế hợp với Chân Tâm, Phật Tánh. Nếu đã biết tất cả các pháp đều là đạo tràng, tất cả các pháp đều là Phật Pháp, thì đạo tràng ở khắp mọi nơi, chỗ nào cũng tu được, ở nhà ở chợ cũng tu, không cứ phải vào chùa mới tu. Tại gia cũng tu được, việc tu sửa không phải chỉ dành riêng cho giới xuất gia. Tu là sửa, tu tâm dưỡng tánh, tu sửa tâm mình, trưởng dưỡng tánh mình, thì nhà mình, gia đình mình là Ðạo Tràng, mà cao siêu hơn hết, phải nói Tâm mình chính là Ðạo Tràng vậy.

Tất cả các Bồ Tát dùng tâm ngay thẳng chân chánh (trực tâm) mà thực hành sáu pháp Ba La Mật (Lục Ðộ), bốn Tâm Vô Lượng (Từ, Bi. Hỷ, Xả)... để hóa độ chúng sinh, mọi việc làm của các Ngài dù thuận dù nghịch cũng đều lành tốt, đều là phương tiện dẫn dắt chúng sinh tới cứu cánh, ví như các Ngài vừa từ Ðạo Tràng mà đến, vừa được nghe lời Phật dạy nay đem nói lại cho chúng sinh nghe, hoặc nói cao hơn, các Ngài đem Ðạo Tràng tới cho chúng sinh, đem chúng sinh thâm nhập Ðạo Tràng.

Khi biết rõ tất cả các pháp đều là Ðạo Tràng, đều là Phật Pháp thì không còn phân biệt pháp lành pháp dữ, khéo sử dụng phương tiện, khéo dùng thì pháp nào cũng tốt cả.

Thí dụ: phiền não là đạo tràng; mới nghe thì hơi chướng tai, các pháp lành là đạo tràng thì đúng, còn phiền não khổ đau thì làm sao là đạo tràng được.
Khi mình đã trải qua cơn phiền não đau khổ thì mình nếm biết mùi vị nó ra sao, biết rõ sự thật đúng với luật nhân quả vô thường vô ngã nghiệp báo, thì tâm không oán than trách móc khổ não nữa, không còn sợ sệt; biết rõ nguồn gốc của phiền não là chính do tâm mình thì sẽ cảm thấy nhẹ nhàng cởi mở, nghịch cảnh giúp mình tiến tu, mình đau khổ phiền não rồi thì dễ thông cảm người khác, thấy người khác phiền não thì mình thương, mình giúp, vậy phiền não chính là đạo tràng, không sai. Người tu chuyển phiền não thành bồ đề là vậy.

Biết các pháp là đạo tràng, nhưng Pháp vốn là Không, pháp lành còn phải bỏ huống là pháp dữ, vậy xin đừng chấp pháp, đừng chấp có pháp tu, có pháp lành hóa độ chúng sinh, có mình cứu độ, có chúng sinh được độ, có quả vị được chứng, phá hết ngã chấp và pháp chấp, đó là mình đang ở trong Ðạo Tràng.

Ðồng Tử Quang Nghiêm thị hiện còn chấp tướng trạng bề ngoài, còn chăm tu các pháp lành để độ chúng sinh, còn thấy có hình tướng người xuất gia tu ở đạo tràng, nay bị Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng vè Tánh mà nói, nhất cử nhất động đều là từ nơi đạo tràng mà ra, ở nơi Phật Pháp vậy.

III. Kết luận

Mục đích đoạn này là phá cái chấp phải vào chùa mới tu, phải xuất gia mới là đi tu, mà ý muốn nói ở đâu cũng tu được, tu Tâm quan trọng hơn tu hình thức ngoài, Tâm chính là Ðạo Tràng vậy.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

IV. PHẨM BỒ TÁT

I. Phật bảo Bồ Tát Trì Thế đi thăm bệnh.

Vị Bồ Tát này cũng từ chối vì nhớ lại lúc trước, Thiên Ma Ba Tuần đem một muôn hai ngàn thiên nữ dâng cho Ngài, Bồ Tát không dám nhận, bỗng thấy trưởng giả Duy Ma Cật đến bảo đem dâng cho ông, rồi ông nói pháp cho họ được pháp vui và pháp môn Vô Tận Ðăng, dù ở cung ma cũng hóa độ được các ma khác. Bồ Tát Trì Thế thấy ông Duy Ma Cật có thần lực tự tại như thế nên không kham lãnh đến thăm bệnh.

Trì là nắm giữ, Thế là đời. Trì Thế là nắm giữ, giữ gìn Phật Pháp để đem hóa độ chúng sinh trong đời, giữ gìn Phật Pháp bền lâu ở đời.

Ba Tuần là một vị Ma Vương có nhiều thần thông, có ác ý, làm các việc ác cám dỗ người tu hành phạm giới, tiêu tan giới thân huệ mạng. Thiên Ma Ba Tuần cũng phá Thái Tử Tất Đạt Đa rất nhiều, trước khi Ngài thành Phật.

Có bốn loại ma:

1) Tử ma: người chết, phần tinh thần thường gọi là linh hồn chưa đi tái sinh, còn quanh quẩn đợi chờ, có thể hiện hình cho thấy.
2) Ngũ ấm ma: năm phần sắc, thọ, tưởng, hành, thức bị trục trặc mất quân hình, khiến người ta cảm thấy khó chịu, bứt rứt, sợ hãi.
3) Phiền não ma: trong tâm khởi lên các phiền não buồn rầu.
4) Thiên ma: loại ma này có nhiều phước nên được ở các cõi Trời, hưởng ngủ dục lạc lấy làm vui sướng, thường hay gây chướng ngại cám dỗ phá những người đã tu hành cao.

Ngũ dục lạc là năm thứ ham muốn khoái lạc vui vẻ, đó là tài, sắc danh, thực, thùy: tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nghỉ.

Trong đoạn kinh này, Thiên Ma Ba Tuần dùng sắp đẹp, đàn nhạc ca múa của các Thiên Nữ để cám dỗ Bồ Tát Trì Thế, vị này biết sắc dục là nhơ uế và nguy hiểm, là vật phi pháp có thể làm hại người tu hành tiêu tan giới đức nên không nhận. Vả lạl, Bồ Tát Trì Thế lại còn nhận lầm Ba Tuần là Trời Ðế Thích, khuyên ông này có phước chớ buông lung mà phải tu pháp bền chắc. Các vị Trời vẫn chưa ra khỏi vòng luân hồi, còn chịu luật vô thường chi phối, cần tu hành theo chánh đạo sẽ được thân bất hoại, mạng vô cùng, của vô tận, đó là ba pháp bền chắc.

Bồ Tát Trì Thế chưa có mắt trí huệ nên không phân biệt Thiên Ma với Vua Trời, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật thấu suốt sự giả trang mập mờ này, bảo Thiên Ma đem dâng Thiên Nữ cho ông, ông sẽ nhận mà không sợ. Bồ Tát Trì Thế không biết là ma, và cũng chưa đủ bản lãnh đối trị ngũ dục lạc, nên tránh xa là hơn, không dính dáng, không phải việc của Ngài.

II. Còn trưởng giả Duy Ma Cật biết rõ là ma, ông không còn đắm nhiễm ngũ dục lạc nên chẳng sợ bị cám dỗ, ông nhận các Thiên Nữ để giáo hóa họ, khiến họ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, họ phát ý đạo, có pháp vui, không ham ngũ dục lạc nữa.

Ðó chính là ý nghĩa của câu kinh: dâm phòng tửu điếm vô phi thanh tịnh đạo tràng, nghĩa là phòng dâm quán rượu chẳng khác đạo tràng thanh tịnh, Bồ Tát vào đó mà không đắm nhiễm, vào đó để tùy duyên hóa độ những người đang chìm đắm trong đó cả kẻ bán lẫn người mua.

Pháp vui của Bồ Tát là việc tu hành thanh tịnh sáng suốt, làm lành lánh dữ, quên mình giúp đở người khác (vô ngã lợi tha), lòng không chấp trước chướng ngại. Khi Ma Ba Tuần xin lại các Thiên Nữ, ông Duy Ma Cật liền trả lại ngay, vì tâm đã hỷ xả, không còn chấp thủ gì. Các Thiên Nữ sau khi được ông Duy Ma Cật giáo hóa đã thức tỉnh, không muốn trở về cung ma nữa, vì đã ra khỏi chỗ nhơ uế thì không muốn trở vào. Ngài Duy Ma Cật liền dạy bọn họ pháp môn Vô Tận Đăng, dù ở cung ma, đạo tâm cũng chẳng bị tiêu mất mà còn hóa độ cho các Thiên Nữ khác, thì đó là báo ơn Phật, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Vô Tận Ðăng là ngọn đèn sáng không bao giờ tắt hết, đèn này là trí huệ sáng suốt của người tu hành. Có trí huệ dù bất cứ làm gì cũng lành tốt, không làm ác được nữa, dù ở hoàn cảnh nào cũng không bị nhiễm ô.

III. Người Việt Nam có Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tảng tu hành tới chỗ vô phân biệt, ăn chay ăn mặn cũng vậy vì tâm không động, luôn nhắm hóa độ chúng sinh. Nhưng người nào chưa tu tới chỗ tâm thanh tịnh thì đừng bắt chước Ngài, mình ăn mặn còn thấy ngon rồi ngụy biện là vô phân biệt thì tội nặng lắm đấy. Tuệ Trung Thượng Sĩ làm thầy dạy Ðạo cho Vua Trần Nhân Tôn, vị Vua anh hùng này sau khi thắng quân Mông Cổ, đã lên núi Yên Tử xuất gia, lập phái Thiền Trúc Lâm và được tôn xưng là Ðệ Nhất Tổ.

IV. Ðoạn kinh này nhấn mạnh vào điểm Bồ Tát sẵn sàng đi vào mọi nơi, sống trong mọi hoàn cảnh sướng hoặc khổ, nhận cả kẻ oán người thân, mà tâm vẫn tự tại, chỉ nhằm mục đích cứu giúp chúng sinh.

Một đệ tử hỏi Ngài Triệu Châu, một thiền sư cao Tăng đời nhà Ðường:

- Có thể nào một Thánh Tăng như Sư Phụ sa vào địa ngục không?
- Thầy sẽ là người đầu tiên đi vào đó.
- Một người phước huệ trang nghiêm như Thầy sao vào địa ngục được?
- Nếu Thầy chẳng vào thì ai giáo hóa cứu vớt con đây?

Các Bồ Tát đã có trí huệ Ba La Mật thì không còn bị sa ngã trước mọi cám dỗ, tâm không dao động trong mọi cảnh thuận hoặc nghịch, nên các Ngài không sợ hãi, không bị ngăn ngại. Phàm phu chưa có đủ bản lãnh thì nên tránh xa nơi xấu xa tội lỗi thì hơn.

Người tu hạnh Bồ Tát tuy chưa được như Cư Sĩ Duy Ma Cật nhưng nên cố gắng bắt chước Ngài vài ba phần, gặp phiền não mà không bỏ được thì cứ lãnh, rồi tùy duyên mà hóa giải, sử dụng, biến thành bồ đề, an lạc.

Ði ra đường thấy người đẹp thì cứ nhìn không sao, giữ tâm không ham ái dục, quán sát người đó như mẹ, như chị thì hết ham muốn, được thảnh thơi.

Khi biết là ma, là phiền não cám dỗ thử thách thì hết si mê tham dục, hết ái nhiễm, mà chuyển ma thành Phật, chuyển ma cung thành Tịnh Ðộ, đây là một tư tưởng rất tích cực, không xa lánh cuộc đời phiền não khổ đau mà nhẩy thẳng vào đời để giúp đời, ở đâu Bồ Tát cũng tu được. Các Thiên Nữ đã được Cư Sĩ Duy Ma Cật dạy bảo tu hành, được hiểu biết sáng suốt, liền theo ma Ba Tuần trở về Thiên Cung để hóa độ các Thiên Nữ, ma nữ khác, đó là tự giác giác tha, tự lợi lợi tha.

Ở đời chúng sinh có tài thì cũng có tật, khi chung đụng với ngườì khác, chúng ta ráng học cái tài của họ và chịu đựng cái tật, rồi rút kinh nghiệm chuyển hóa lần lần thì cái dở cũng thành hay.
Dùng người như dùng gỗ, gỗ lớn thì làm cột kèo, gỗ nhỏ thì làm bàn ghế, gỗ vụn thì làm củi đun, nếu bỏ đi thì uổng.
Ðừng nói suông mà phải làm, mình làm trước rồi người khác sẽ bắt chước làm theo, tu Bồ Tát Ðạo là phải lợi tha, quên mình giúp người, mình có hết tham sân si thì mới dạy người khác trừ tham sân si được đó là thân giáo, đem thân mình, lối sống của mình ra dạy người khác.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

IV. PHẨM BỒ TÁT

I. Trưởng Giả Tử Thiện Đức

Trong Phẩm Bồ Tát này, ba vị đầu (Bồ Tát Di Lặc, Ðồng Tử Quang Nghiêm, Bồ Tát Trì Thế) là Bồ Tát xuất gia, còn vị thứ tư Trưởng Giả Tử Thiện Ðức là Bồ Tát tại gia, nên có nhiều tiền bạc của cải lập hội đại thí.

Thiện Ðức là người làm nhiều việc lành tốt, vun trồng nhiều phước báo công đức. Trưởng Giả Tử Thiện Ðức cúng dường các vị tu hành chân chánh cũng như ngoại đạo, bố thí cho những kẻ nghèo cùng khốn khổ, nhưng Cư Sĩ Duy Ma Cật đến bảo rằng tài thí chưa rốt ráo, pháp thí quý gía hơn.

II. Nghĩa về Bố thí

Tài thí là đem của cải vật chất (tiền bạc, quần áo, đồ ăn, thuốc men, nhà cửa ruộng vườn, châu báu vàng ngọc...) ra cúng dường người tu hành và cứu giúp người nghèo khó, dĩ nhiên là có đem lại phước báo, người thực hành tài thí sẽ đươc hưởng quả báo lành trong đời nay và nhiều đời khác.

Pháp thí là đem những pháp môn tu hành chân chánh chỉ dạy cho người ta thực hành tu sửa thân tâm, hướng về giác ngộ và giải thoát. Thuyết giảng giáo lý, dạy lễ bái niệm Phật tu Thiền, biếu tặng kinh sách đều là pháp thí, an ủi người đau khổ, khuyên giải kẻ ác độc mê mờ, cảnh tỉnh người tham dục nóng giận.... cũng là pháp thí.

Tài thí đem an vui cho thân, pháp thí đem an vui cho tâm, mà tâm quan trọng hơn thân nhiều. Trong Kinh Pháp Hoa có câu: Ðem của báu đầy ba lần ngàn đại thiên thế giới ra bố thí cúng dường cũng không bằng Pháp cúng dường, đem một câu kinh, một bài kệ, một bài chữ ra dạy chúng sinh. Của báu dù nhiều đến đâu cũng là vô thường, tiêu mãi cũng hết, nên gọi là giả huyễn, không thật có, không bền lâu, có khi còn đem lại phiền não trái ngược. Pháp thí đem lại an vui Niết Bàn, hạnh phúc chân thật, lợi mình lợi người, lâu dài đời này đời sau. Pháp thí gồm có bốn Tâm Vô Lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả), sáu pháp Ba La Mật (Lục Ðộ), Không, Vô Tướng, Vô Tác...

Ðược Cư Sĩ Duy Ma Cật hướng dẫn, ông Thiện Ðức được tâm thanh tịnh liền đảnh lễ và cởi chuỗi ngọc đáng giá trăm ngàn lạng vàng đem dâng cúng cư sĩ, vị này không chịu lấy, ông Thiện Ðức năn nỉ xin Ngài cứ nhận tùy ý Ngài cho. Cư sĩ Duy Ma Cật chia chuỗi ngọc làm hai phần, một phần đem cho người ăn xin hèn hạ nhất trong hội, một phần đem dâng Ðức Nan Thắng Như Lai. Câu truyện này giống trong Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Vô Tận Ý dâng chuỗi ngọc lên Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Ðại Bồ Tát này chia làm hai phần, một phần cúng dường Ðức Phật Thích Ca, một phần cúng dường tháp Phật Ða Bảo.

III. Bố thí không khởi tâm phân biệt

Nan Thắng là khó thắng. Chúng sinh phàm phu thường có ý thức hay phân biệt cao thấp, sang hèn, quý tiện... nay bảo phải tu vô phân biệt thì thật là khó; điều gì khó làm mà làm được thì mới là quý, khó hiểu mà hiểu được thì mới là hay, là giỏi. Ý thức hay phân biệt, xúi giục chúng ta phân chia giai cấp, quý trọng người sang, khinh rẻ người nghèo, chúng ta thường nghe theo ý thức đó, để cho ý thức chi phối hành động, ý thức đã thắng, điều khiển chúng ta.

Nay nếu chúng ta biết chuyển ý thức thành trí huệ sáng suốt vô phân biệt thì chúng ta đã thắng lại nó, tuy khó mà làm được mới quý, khó thắng mà thắng được mới tài, danh từ Nan Thắng có nghĩa ẩn như vậy.
Ðức Thế Tôn dạy: Chiến thắng trăm ngàn quân địch không khó bằng điều phục tâm mình.
Cúng dường Phật hoặc bố thí cho kẻ ăn xin mà không khởi tâm phân biệt, chỉ một lòng đại bi bình đẳng, không ham quả báo, đó gọi là đầy đủ Pháp Thí vậy. Thật là cao quý siêu việt, không còn chấp trước mọi hình tướng ngã pháp, vô cầu, vô đắc, pháp thí quý hơn tài thí ở chỗ đó, nhưng thật là khó làm.

Trong kinh sách cũng có câu: bố thí cho chúng sinh tức là cúng dường mười phương chư Phật, vì tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, đều là Phật sẽ thành, Pháp Thí vô phân biệt là vậy.

IV. Nói dễ làm khó, người tu hành phải làm những gì mình nói, tránh bệnh nói suông, nếu nói nhiều nói cao mà chẳng làm được gì thì chỉ để người ta chê cười, tổn hại cho cả kẻ nói lẫn người chê không lợi gì cho việc truyền bá giáo pháp.

Muốn thực hành pháp thí trước hết mình phải có trí huệ sáng suốt, hiểu biết thâm sâu rồi đem cái sự sáng suốt đó ra bố thí cho người khác, nghĩa là làm cho người khác cũng hiểu biết sáng suốt như mình; khi người ta đã sáng suốt thì không còn tham mê ngũ dục lạc nữa mà họ sẽ tu theo Chánh Pháp, tiến tới giác ngộ.

Nếu người ta mong gì, xin gì, mình cho nấy mà không khiến họ mở mang trí huệ thì chỉ làm tăng thêm lòng tham dục của họ, lòng tham không đáy biết bao nhiêu cho vừa, đó không phải là bố thí đúng pháp.
Muốn có trí huệ thì cần phải xả bỏ các chấp trước, không phân biệt thân sơ, nhiều ít, trước sau, tâm tự tại an định như mặt trời chiếu sáng không phân biệt núi sông vườn ruộng, như mưa tưới nước đều khắp, không phân biệt loại cây lớn nhỏ, cỏ dại hay cỏ thuốc. Khi ta có trí huệ rồi thì làm việc gì cũng lành tốt cả.

Ðiều quan trọng là khi bố thí phải có tâm hoan hỷ, không chấp trước mong cầu, không đợi lời cám ơn, không chờ đền đáp lại. Cư Sĩ Duy Ma Cật cho người ăn xin và cúng dường Phật với tâm hoan hỷ bình đẳng như nhau chẳng khác, đó là thực hành Pháp Thí vậy.
Nếu ngay trong đời nay, chúng ta bố thí, làm việc xã hội cứu tế người nghèo, hoặc cư xử hòa thuận trong gia đình theo phép Lục Hòa, hoặc cúng dường chư vị Tăng Ni, giảng nói Phật Pháp, ấn tống kinh sách... với tâm hoan hỷ bình đẳng như nhau, không mong đền đáp, không cầu chứng đắc, không chấp thân sơ, thấy việc tốt là làm, làm xong là quên... đó chính là thực hành Pháp Thí, công đức vô lậu không cầu mà vẫn có.

Chuỗi ngọc trên Ðức Phật Nan Thắng biến thành bốn trụ đài quý báu, bốn mặt đều trang nghiêm rực rỡ không ngăn che nhau:

V. Kết luận:

Nhờ bố thí không chấp tướng mà thực hành được bốn Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả), bố thí đứng đầu sáu pháp Ba La MậI (Lục Ðộ), vì không chấp trước nên được Tam Luân Không Tịch, bố thí là căn bản nền móng cho việc thực hành Bồ Tát Ðạo, như Bốn Sự Thật Chân Chánh (Tứ Ðế) là căn bản nền móng của giáo lý nhà Phật, cho nên chuỗi ngọc biến thành bốn trụ đài quý báu, chống đỡ tòa lâu đài Chánh Pháp.

Ðứng về tướng thì đời là khổ, nhiều thứ khổ, mà nguyên nhân của sự khổ là tham sân si vô minh chấp trước, muốn hết khổ được Niết Bàn an lạc thì cần tu 37 phẩm trợ đạo, quan trọng hơn hết là Bát Chánh Ðạo.

Ðứng về Tánh thì chẳng có khổ có vui, không có pháp môn tu không có quả vị chứng, không chấp, không cầu, không ta không người, không có gì ngăn ngại nên kinh nói là bốn mặt đều trang nghiêm rực rỡ không ngăn che nhau, được thông suốt, đó là lý Tất Cả Là Một.

Trong Phẩm Bồ Tát này có bốn vị Bồ Tát đại diện cho bốn loại người tu theo hạnh Bồ Tát khác nhau:

1) Bồ Tát Di Lặc, chuyên tu Duy Thức quán, dùng Thức để phân biệt, chưa đủ trí huệ sáng suốt hoàn toàn, chưa đạt được Chân Trí.

2) Ðồng Tử Quang Nghiêm, còn thấy có pháp để tu, có chúng sinh cần độ, có chùa để xuất gia, có quả vị để chứng có công đức để trang nghiêm, chưa bỏ được chấp tướng bề ngoài để quay vào bên trong, tu Tâm mới là quan trọng hơn hết. Ngài còn chấp tướng nên chưa xứng Tánh làm Phật sự.

3) Bồ Tát Trì Thế đã nắm giữ được Phật Pháp để độ chúng sinh trong đời, nhưng chưa đủ trí huệ để hóa độ nghịch cảnh, không dám dấn thân vào những nơi xấu ác, chưa điều phục được tâm mình.

4) Trưởng Giả Tử Thiện Ðức làm hạnh bố thí chưa rốt ráo, có tài thí nhưng thiếu pháp thí, bố thí mà thiếu trí huệ thì chưa tới chỗ vô phân biệt được, chưa được hoàn toàn bình đằng.

Xin quý vị đọc đến chỗ này đừng khởi tâm chê bốn vị Bồ Tát là chưa tu cao, các Ngài thị hiện thiếu sót, giả vờ còn có các nhược điểm, nhân đó Bồ Tát Cư Sĩ Duy Ma Cật (đại điện cho Ðức Thế Tôn) có cơ duyên đem Chánh Pháp ra nói, nghĩa đen là nói cho bốn vị Bồ Tát và những nhân vật hiện diện nghe, nghĩa bóng là dạy bảo tất cả chúng sinh tu hành chân chánh, đừng chấp tướng bề ngoài, quay vào trong Tâm mà tu, tu ở đâu cũng được, ở chùa ở chợ ở nhà đều là đạo tràng, chỉ cần làm sao chuyển được tâm mình từ nhơ thành sạch, từ tối thành sáng, thế là đủ, tâm tịnh quốc độ tịnh.

Nói tâm chuyển rồi thì ngoại cảnh chuyển theo, như vậy chỉ cần chuyển tâm, không mong chuyển cảnh, hãy cải hóa mình trước, rồi giúp cải hóa người khác sau. Các Bồ Tát thị hiện làm các việc hoặc tốt hoặc xấu, hoặc thuận hoặc nghịch, để làm gương hóa độ chúng sinh, vì chúng sinh chứ không vì các Ngài, các Bồ Tát đã chuyển xong tâm rồi, nay giúp chúng sinh chuyển tâm của họ mà thôi.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

V. PHẨM VĂN THÙ SƯ LỢI

I. Văn Thù Sư Lợi, phiên âm chữ Phạn Manjusri, dịch nghĩa là Diệu Ðức đầy đủ ba đức lớn: Tín, Hạnh, Trí, thường được gọi là Ðại Trí Văn Thù vì Ngài đã chứng được thật trí, liễu ngộ Phật Tánh, là bậc Thượng Thủ trong hàng Bồ Tát. Tất cả các đại đệ tử và Bồ Tát không dám tới thăm bệnh Cư Sĩ Duy Ma Cật vì ông đã thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật tượng trưng cho Căn Bản Trí hoặc Vô Sư Trí, Ðức Di Lặc chuyên về Duy Thức cùng các vị khác không đủ trí huệ để đối đáp, chỉ có Ngài Văn Thù Sư Lợi đã chứng Hậu Ðắc Trí hoặc Hữu Sư Trí mới kham lãnh nhiệm vụ đi thăm bệnh, mới đủ tài đối đáp với ông Duy Ma Cật.

Ðây là cuộc đối thoại đấu lý cao siêu tuyệt vời giữa hai vị chứng ngộ Phật Tánh, chuyển Thức thành Trí, rời tướng nhập Tánh, nên các Bồ Tát, Thanh Văn đệ tử, Trời người rất đông cung kính đi theo Ngài Văn Thù vào thành Tỳ Xá Li, đến nhà Cư Sĩ Duy Ma Cật. Vị này biết được liền dùng sức thần thông làm cho trong nhà trống rỗng không có đồ đạc gì, không có thị giả hầu hạ, chỉ để một cái giường ông nằm. Cư sĩ lên liếng chào khách: "Quý hóa lắm, Ngài Văn Thù tới thăm bệnh. Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy." Bồ Tát Văn Thù đáp: "Phải đấy, Cư Sĩ . Nếu đã đến tức là không đến, nếu đã đi tức là không đi."

II. Phẩm này nói về bệnh của thân, nhưng thâm ý là muốn dạy chúng sinh điều trị bệnh của tâm, điều phục tâm. Dẹp bỏ các đồ đạc không có người hầu hạ, chỉ còn mộl cái giường, là ý muốn nói dẹp hết các phiền não, các tư tưởng chấp trước, cho đến các niệm thiện (thị giả) cũng không giữ, chỉ còn lại Tâm thanh tịnh mà thôi. Nếu còn phân biệt thiện ác là chưa được Nhất Tâm. Vừa gặp mặt nhau, sau câu chào thường lệ, Cư Sĩ Duy Ma Cật đã mời quý khách nếm ngay Pháp vị: Tướng thì không mà Tánh thì thật, thân người tuy không thật mà vẫn có tới lui đi đến, con mắt tuy giả huyễn mà vẫn trông vẫn thấy.

III. Tướng không đến mà đến: đứng về Tánh thì thân người không thật có, là giả huyễn, nhưng đứng về Tướng thì vẫn có thân người tới lui. Ðây là phá ngã chấp, đề cao Ngã Không. Tướng không thấy mà thấy: đứng về Tánh thì con mắt (tượng trưng cho tất cả sáu căn) là vô ngã vô thường không thật, nhưng đứng về Tướng thì con mắt vẫn thấy, sáu căn hay sáu giác quan vẫn thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, phân biệt, sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp vẫn có, nhưng là giả huyễn, đây là phá pháp chấp, đề cao Pháp Không.

IV. Cư Sĩ Duy Ma Cật đưa ra câu chào dựa trên lập trường Thể Tánh, Ngài Văn Thù dùng Thật Tướng mà đáp lại: "Phải đấy, thân người sinh ra thật không từ đâu đến mà mai đây ra đi thật chẳng đi về đâu." Ðoạn này so sánh Pháp Thân với nhục thân. Xác thân mắt phàm thấy được là giả huyễn, không thật có, vô thường vô ngã, còn Pháp Thân mắt phàm không thấy lại là chân thật, thường trụ.

Nhà trống rỗng không có đồ đạc, không có thị giả hầu hạ: Muốn hết bệnh phiền não thì phải biết mọi sự vật là giả, không thật có, các Bồ Tát biết các pháp như huyễn vì các Ngài đã tỉnh giác, ra khỏi giấc mộng dài, còn chúng sinh thấy các sự vật là có thật, được thì vui mất thì buồn.

V. Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng trên lập trường giác ngộ mà nói, không đồ đạc, không thị giả, vì cõi Phật vốn Không, vô ngã, vô pháp. Tâm đã thanh tịnh thì không phân biệt, không tật đố phiền não. Muốn được như vậy, phải lấy không làm không, phải buông xả tất cả mọi quan niệm yêu ghét, không còn chấp một tí gì nữa, hết chấp ngã chấp pháp thì tâm mới không phân biệt.

**************************************************
VI. Tất cả chúng ma và ngoại đạo đều là thị giả. Ma là những chúng sinh đắm say dục lạc, không chán sinh tử, ưa làm chướng ngại người tu hành.
Còn ngoại đạo là những người nhiều kiến chấp vọng tưởng, người đi tìm Chân lý ở ngoài tâm, hướng về ngoại cảnh. Thông thường, các vị trưởng lão Hòa Thượng có một người đệ tử hầu cận giúp việc, gọi là thị giả, cũng tu hành chân chánh, thầy trò giống nhau. Ở đây, thị giả của Cư Sĩ Duy Ma Cật lại là chúng ma và ngoại đạo, họ gây chướng duyên nhưng lại là trợ duyên để Bồ Tát thực hành lòng Ðại Bi. Thật vậy, nếu không có người trêu chọc, mình đâu có cơ duyên tu nhẫn nhục, nếu không có người quyến rũ, mình đâu có cơ hội quán thân bất tịnh, nhiếp hộ sáu căn? Do đó chúng ma và ngoại đạo giúp Bồ Tát tu Lục Độ Vạn Hạnh, Bồ Tát làm chủ được Tâm ví như ông chủ sai khiến chúng ma và ngoại đạo là người giúp việc, Tâm không động thì dục lạc và kiến chấp không lôi cuốn được, nếu khéo điều khiển thì những kẻ ác lại là những ngườì giúp việc đắc lực.

VII. Sám hối

Dù biết rằng thân này chịu khổ là do nhân quả nghiệp báo đã gây tạo từ trước, dù ăn năn sám hối, nhưng không vì những hành động quá khứ mà cam chịu khổ sợ nhọc nhằn, Bồ Tát quên quá khứ (vì quá khứ đã trôi qua không nắm lại được) không phải để tiếp tục gây lội lỗi, mà quyết tâm làm lành, làm tốt, lấy công chuộc tội. Nếu để quá khứ ám ảnh, tội lỗi ray rứt thì đau khổ hối hận theo hoài, khó dứt ra được. Chi bằng gây tội thì chuộc lỗi, bị gai lấy gai mà nhổ, té ngã nơi đâu thì chống tay nơi đó mà đứng dậy, đã sám hối rồi thì nhất định không tái phạm, mà cũng không nhắc đi nhắc lại làm gì. Nhà tối tăm bẩn thỉu lâu ngày thì phải thắp đèn là sáng, lau chùi là sạch, than thở suông không giúp ích gì.

VIII.Vẫn biết do tội trước mới có bệnh sau, thí dụ: do ăn uống không gìữ vệ sinh nên bị đau bụng, do trộm cướp mà bị vào tù ... thì từ nay phải xin chừa, không tái phạm mới là tốt, nếu cứ buồn rầu để lương tâm cắn rứt mà không sửa đổi tâm tánh, cứ chứng nào tật nấy, thì bài học quá khứ không giúp gì cho hiện tại và tương lai. Không nói vào nơi quá khứ còn có ý nghĩa là Bồ Tát không chấp sự chia cắt thời gian làm ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) mà chỉ phương tiện nói có trước có sau mà thôi, vì nơi cứu cánh tuyệt đối, nơi Thể Tánh không có thời gian vô thường mà lúc nào cũng là Chân Thường Vĩnh Cửu. Tội lỗi vốn là Không, chẳng có Thật Tướng, do Tâm sinh thì lại do Tâm diệt, hiểu vậy thì phá được cái chấp thường, chấp đoạn, lìa hai tướng cực đoan, chứng nhập Chân Như.

Ðứng trên lập trường bản thể thì không có ta có người, không có bệnh có khổ, nhưng trong cuộc đời tương đối, nơi thế gian vẫn có ta có người, có bệnh có khổ, nếu phủ nhận là lại lạc vào bệnh chấp không.

IX Thân kiến

Bệnh là ở thân, có thân nên có bệnh, có bệnh là do chấp ngã, bỏ chấp ngã là phá được thân kiến, có trí huệ sáng suốt hiểu biết sự thật, khi đã trừ được ngã và ngã sở rồi thì thấy tất cả là một, bình đẳng như nhau, ai cũng là bà con quyến thuộc, không còn yêu ghét oán thân; đẹp xấu khen chê, ngon dở... đều không làm dao động tâm mình.

X. Gốc bệnh là vô minh , vọng thức, loạn tưởng điên đảo, phiền não, dính níu sáu trần trong ba cõi là gốc của Sinh, mà Sinh chính là nguyên nhân của Già, Bệnh, Chết. Chúng sinh sở dĩ chịu cảnh khổ luân hồi từ vô số kiếp, thống khổ triền miên trong cảnh tối tăm mờ mịt chưa biết ngày nào ra khỏi, chỉ vì chưa tìm ra gốc bệnh để trừ. Nay đã biết gốc bệnh rồi thì phải trừ diệt nó bằng pháp quán Vạn Pháp Vô Sở Ðắc, mọi vật không có gì là được cả. Vì sao? Vì sáu căn là huyễn hóa, sáu trần là ảo ảnh, sáu thức mê lầm.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh có câu: Vì không có gì được nên các Bồ Tát tâm không ngăn ngại, không lo sợ điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.
**********************************************************


XI. Bồ Tát có bệnh mà điều phục được tâm mình như vậy thì mới thật là chánh giác.

Dẹp được oán tặc gọi là dõng mãnh, dẹp được gốc Sinh, Già, Bệnh, Chết gọi là Bồ Tát.

Nhưng có một điểm rất quan trọng vi tế cần phải lưu ý, kẻo hành từ bi mà lạc vào ái kiến. Nếu Bồ Tát còn thấy có ta, có người, có bệnh, vì ta bệnh nên thương người bệnh, đó là ái kiến từ bi, cần phải bỏ. Vì sao? Thấy có ta thì làm lâu sẽ mỏi mệt, hành từ bi nhiều sẽ nhàm chán, thấy có người thì khi người kia đau khổ mình thương, nếu người kia xấu ác thì mình ghét, thấy có bệnh hay lây, truyền nhiễm nguy hiểm thì mình tránh, tâm mình sẽ khởi niệm phân biệt bất bình đẳng, khi đó lòng từ bi bị thương tổn, không còn vô tư.

XII. Ðể tránh ái kiến từ bi, trong khi cứu giúp mọi người, Bồ Tát luôn luôn giác tỉnh, vô ngã , vô pháp, mở rộng lòng từ bi luôn luôn sẵn sàng với bất cứ ai, bất luận trường hợp nào, hoàn cảnh dù thuận dù nghịch, không cần đợi duyên, không cần đủ duyên, lòng từ bi quảng đại này được gọi là Vô Duyên Từ.

Khi mình không bị ái kiến che lấp Chân Tâm thì không bị ràng buộc mà lại còn đi cởi mở sự ràng buộc cho chúng sinh. Tự cởi trói trước rồi mới cho chúng sinh sau. Nếu biết thân ta không thật có, chúng sinh không thật có, sợi dây trói không thật có thì không cần phải cởi cũng vẫn giải thoát tự tại. Lúc làm việc cứu giúp chúng sinh cần sáng suốt áp dụng trí huệ và phương tiện, nếu sơ ý thì cởi biến thành trói.

XIII. Thực hành phương tiện để điều hòa tâm ý (uống trà, ngâm thơ, thiền hành, cắm hoa...) một cách đúng sức, đúng thời thì mình cảm thấy thoải mái an vui, đó là phương tiện cởi.

Nhưng nếu dùng quá sức, hoặc say mê, không đúng lúc, thân tâm bị chi phối lôi cuốn thì đó là phương tiện trói.

XIV. Cúng dường Tam Bảo đúng sức đúng thời, thân tâm hoan hỷ thì là phương tiện cởi.

Nhưng nếu phải chạy ngược chạy xuôi, làm việc quá sức, hoặc đi vay nợ, thân mệt tâm buồn thì việc cúng dường Tam Bảo là phương tiện trói. Hướng dẫn gia đình đi Chùa, lễ Phật tụng Kinh đúng lúc, đúng tuổi, hợp căn cơ, khiến mọi người vui vẻ thì là phương tiện cởi.
Nếu mọi người phải làm những việc đó một cách uể oải không thích hợp, miễn cưỡng mà làm thì là phương tiện trói.
Tóm lại, những việc gì làm tham sân si giảm là phương tiện cởi, là tốt; những việc gì làm tham sân si tăng là phương tiện trói.
********************************************
XV. Chúng sinh có nhiều tâm tư ý thích khác nhau, có những thú vui riêng,
nếu trái ý là không nghe; nếu người ta không muốn thì mình đừng dùng sức mà kéo vào Thiên Ðường.
Nếu ngườì ta muốn vào Ðia Ngục, mình dùng sức kéo ra họ cũng chẳng theo. Do vậy, Bồ Tát phải khéo léo, tùy duyên phương tiện mà dẫn dắt, khi thuận khi nghịch, sau phải dùng Trí Huệ mà hóa độ.
Muốn họ theo, mình phải làm gương tốt trước, mình không uống rượu mới khuyên người đừng uống rượu, mình không nói dối mới khuyên người đừng nói dối, mình cởi trói cho mình trước rồi hãy cởi trói cho người khác, đó gọi là Thân Giáo, có đủ phương tiện huệ và huệ phương tiện.

XVI. Áp dụng đúng phương tiện để tiêu trừ tham sân si thì gọi là có huệ phương tiện. Nhưng áp dụng sai hoặc quá đắm nhiễm phương tiện khiến tham sân si tăng trưởng thì gọi là không có huệ phương tiện. Tập thể dục đúng sức để được mạnh khỏe, là có phương tiện huệ. Nếu quá say mê tập quá sức thì hại sức khỏe, đó là không có phương tiện huệ.

XVII. Có Huệ Phương Tiện là phương tiện có trí huệ soi sáng, hóa độ chúng sinh mà vẫn tỉnh giác, không chấp trước vì biết vô ngã, vô nhân. Gặp người bội bạc vẫn làm ơn, bị hiểu lầm không nản chí, kiên trì làm mọi việc lành, dù hoàn cảnh thuận hay nghịch cũng không lùi bước.

Nếu Bồ Tát đem lòng ham muốn, nóng giận, tà kiến, hoặc vì danh lợi mà làm việc lành, thí dụ: cúng dường Tam Bảo nhiều tiền để được khen, được tiếng giầu có hơn người, để thỏa lòng ganh tỵ... thì đó không phải là Phương Tiện Huệ. Bồ Tát thi ân coi như đôi dép rách mang vứt bỏ, làm rồi quên, bị hiểu lầm coi như thử thách ngưỡng cửa Ðạo Hạnh, chẳng cần biện bạch, đó là có đủ Huệ và Phương Tiện vậy.

XVIII. Thân bệnh cũng có thể làm phương liện để tiến tu đạo hạnh, không vì có bệnh mà chán thân. Khi nằm dưỡng bệnh, ta có thể quán thân vô thường vô ngã, khổ và Không, ngoài ra còn lợi dụng phương tiện nằm nghỉ để niệm Phật, tu thiền, đọc kinh sách, suy ngẫm lý đạo, mở mang trí huệ,... thì đó chính là Huệ Phương Tiện.
Ví như chúng ta có chiếc xe hơi để di chuyển, thỉnh thoảng xe bị hư thì phải sửa chữa để lại đem dùng nữa, không vì xe hỏng mà vứt đi. Có sự hiểu biết sáng suốt thì gặp việc xấu cũng chuyển thành tốt, đó là có Phương Tiện Huệ. Gặp hoàn cảnh nghịch, gặp ác duyên mà mình vẫn nhẫn nhục tu hành, vượt qua chướng ngại thì gọi là có Huệ Phương Tiện.

XIX. Các Bồ Tát có đủ bản lãnh để lấy độc trị độc, chuyển xấu thành tốt, chuyển ồn ào thành yên lặng. Thí dụ: Trong lớp học, các học sinh nói chuyện lao xao, thầy giáo phải nói nhỏ nhẹ, lớp vẫn ồn, không làm việc được. Lúc đó, thầy giáo phải nói lớn tiếng, lấy thước gõ mạnh lên bảng, khiến học trò im lặng. Lớp học yên rồi thì Thầy không gõ bảng nữa và bắt đầu giảng bài. Nếu thầy tiếp tục gõ bảng thì không giảng bài được. Các Bồ Tát cũng vậy, lúc đầu cần điều phục tâm ví như thầy giáo cần gõ bảng, khi tâm đã thanh tịnh rồi thì không còn trụ vào việc điều phục nữa, ví như lớp học đã yên rồi, Thầy giáo không cần gõ bảng.

Trong Kinh có câu: Dù thực hành sáu pháp thần thông mà không dứt hết lậu hoặc (phiền năo) là hạnh Bồ Tát. Có khi Bồ Tát thị hiện tham sân si mà làm Phật sự, tham vì người, sân vì muốn giúp người, si để cảnh tỉnh người.
Thí dụ: Tham mở mang buôn bán để mướn nhiều người giúp họ có việc làm sinh sống, đem tiền lời làm việc từ thiện, chứ tâm không mong hưởng lợi cho riêng mình; giả bộ nóng giận để dạy người tu, khiến người hối hận mà không làm việc ác; giả bộ mê mờ tội lỗi để làm gương xấu, mọi người thấy mà bỏ dữ làm lành. Giận người thân là mong họ tốt, mắng nhiếc con là mong con ngoan.
Nếu tâm mình thật có tham sân si thì là phàm phu, còn thị hiện tham sân si, tâm vẫn thanh tịnh thì là Bồ Tát.


XX. Trong suốt đoạn kinh tiếp theo là nói về 37 phẩm trợ đạo, các pháp môn tu hành, Bồ Tát đều thực hành mà không rời Phật Pháp.

Trợ Ðạo là giúp Ðạo, giúp người tu đi trên đường chân chánh, tới chỗ rốt ráo giác ngộ. Trợ là giúp, là phụ, nên chưa phải là chánh, biết vậy mà Bồ Tát vẫn tu, vì biết đó là duyên tốt, là bè đưa qua sông, tới bờ bên kia thì bỏ bè, lúc đó Chánh Pháp còn bỏ huống chi là pháp hoặc trợ đạo.
******************************************


XXI. Phật Pháp không cố định, mà biến hóa cho hợp thời hợp cơ, người tu hạnh Bồ Tát không nhất thiết tu theo pháp nào, chúng sinh cần gì cho nấy, thích gì dạy nay, miễn là đưa họ tới chỗ giác ngộ.

Nhưng không vì thế mà quá mềm yếu, nếu chúng sinh muốn những điều sai trái thì cương quyết từ chối, hoặc thị hiện nóng giận quát mắng, dùng oai lực để đưa họ trở về chánh đạo.
Ðó là Bi Trí Song Tu,
có từ bi nhưng vẫn nương trí huệ soi sáng,
có trí huệ nhưng vẫn từ bi nhu hòa.

Có từ bi mà thiếu trí huệ thì dễ thành mềm yếu, dễ bị tình cảm chi phối, không cương quyết.
Có trí huệ mà thiếu từ bi thì dễ thành khắc khổ lạnh lùng, chúng sinh nể sợ mà không thích gần gụi.
Vì vậy Bồ Tát phát huy trí huệ nhưng không bỏ từ bi, làm gì cũng chỉ vì chúng sinh. Tuy đã chứng Niết Bàn thanh tịnh mà vẫn không lìa cõi Ta Bà nhơ uế, là vì để hóa độ chúng sinh.

Có sức mạnh khả năng như vậy thì mới có thể phát lời thệ nguyện lớn như Bồ Tát Ðịa Tạng: "Ðịa ngục chưa trống, thề chẳng thành Phật. Chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ Ðề." Có điều phục được tâm mình như đã nói ở trên thì mới có thể thực hành Bồ Tát Ðạo một cách rốt ráo.

XXII. Kết luận:

Huyền nghĩa của Phẩm này là những người tu hạnh Bồ Tát phải điều phục tâm mình trước, rồi hãy đi an ủi hóa độ chúng sinh.

Tất cả do Tâm tạo, tâm an thì cảnh thuận, tâm tịnh quốc độ tịnh. Khi tâm thanh tịnh rồi thì tha hồ ung dung tự tại vào ra ba cõi, các duyên thuận nghịch chẳng làm động lòng, chúng sinh khó dạy chẳng làm lui bước, làm mọi việc với lòng không mong cầu, lặn lội trong bùn nhơ để cứu vớt chúng sinh với tâm vô phân biệt, Như Như Bất Ðộng, vì các Bồ Tát đã hòa mình với chúng sinh, Tất cả Là Một.
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 18/08/12 08:08 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

VI. PHẨM BẤT TƯ NGHỊ

I. Nhà ông Duy Ma Cật giầu có tất nhiên có nhiều đồ đạc quý giá, nhưng ông dùng thần thông làm cho nhà trống rỗng là có ý muốn diễn tả tâm thanh tịnh, Tâm Không, hết phiền não nhiễm ô.
Phẩm thứ V nói về Ngã Không,
Phẩm thứ VI này nói về Pháp Không,
Dạy người tu hành đừng đắm nhiễm bất cứ một pháp nào, cứ tùy thuận mà tu.

Người cầu pháp thân mạng còn không tham tiếc huống chi bàn ghế; muốn tới Chân Lý, người tu hành phải phá trừ ngã chấp và pháp chấp, lìa năm uẩn, mười hai nhập, mười tám giới.

Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Mười hai nhập gồm có sáu căn và sáu trần.
Mười tám giới gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức.

Nói mười tám giới là gồm cả vật chất và tinh thần hợp lại cấu tạo nên chúng sinh và cảnh vật trong ba cõi. Người cầu pháp không được đắm nhiễm trong mợi sự vật ở thế gian, ngay cả đến Ba Ngôi Quý (Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng) cũng không được đắm trước, vì đứng về Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng không cầu.

Pháp Bảo (Tứ Diệu Ðế) cũng không đắc, Tăng Bảo cũng không trụ, Vô Cầu, Vô Ðắc, Vô Trụ, không thể dùng hữu vi để cầu vô vi, không dùng hữu tướng để đắc Vô Tướng hay Thật Tướng. Vậy muốn cầu pháp, cầu Chân Lý thì phải Vô Cầu bỏ tâm mong cầu, vượt qua ngã chấp và pháp chấp thì thấy được Chân Lý.

Người tu hành mà còn thấy có mình tu, có pháp môn tu, có chúng sinh để độ, có Niết Bàn để chứng thì còn chấp ngã, chấp pháp, còn luẩn quẩn trong vòng sắc tướng hữu vi thì không thể chứng ngộ pháp vô vi được.

Nói chứng đắc nhưng thật ra không gì được cả vì chúng sinh sẵn có Phật Tánh đầy đủ Ðức Tướng của Như Lai rồi, ví như viên ngọc nằm sẵn trong áo, mê thì không biết là có, nay tỉnh thì thấy viên ngọc cho là đắc, thật ra có đắc gì đâu.

Pháp là tịch diệt, không sinh diệt, không tạo tác, không thủ xả, không xứ sở: đã là tịch diệt thì không chấp trước gì nữa, cứ để Tâm thanh tịnh an nhiên tự tại, việc gì tùy thuận lợi ích chúng sinh thì làm, làm xong thì bỏ, chỗ nào cũng tu được, ở chùa, ở chợ, ở nhà đều tu, mà tu nhà tu chợ cần hơn tu chùa, vì gần nhiều chúng sinh xấu ác, có nhiều cơ duyên thực hành Bồ Tát Ðạo.

Không chấp tướng giầu nghèo, không chấp hình thức lễ bái, không trụ một pháp môn nào, mà phải tùy thuận chúng sinh, tùy hỷ hướng dẫn tu hành, ai thích tụng kinh thì dạy tụng kinh, ai thích niệm Phật thì cùng niệm Phật, ai thích tu thiền thì cùng tọa thiền, không chấp pháp nào hơn pháp nào, miễn là hợp căn cơ ý thích của chúng sinh, lợi ích chúng sinh hướng về giác ngộ.

Đối với tất cả pháp, đừng cầu một cái gì thì gọi là cầu pháp. Không móng tâm tham đắm, không mong được vật gì, là vì mình đã sẵn có đủ cả rồi; hiểu vậy thì không tham cầu nữa, luật nhân duyên quả báo rất minh bạch, dù cầu hoặc không cầu, khi đủ nhân duyên thì sẽ kết quả.


II. Tâm có nhiều sức mạnh, đem hình tướng những vật lớn vào trong tâm là đảo lộn không gian, đem quá khứ vị lai vào hiện tại là đảo lộn thời gian, tâm mình có khả năng như vậy, nhưng vẫn là vọng tưởng, là huyễn, là giả, đừng chấp là thật, thì tham sân si không nổi, được an định.

Bồ Tát biết vọng tưởng là huyễn nên có chánh định, chúng sinh tưởng là thật nên bị tán loạn, không có định, bị khổ đau. Người tu hành không để trần cảnh chi phối mình; những gì đã qua thì đừng cho trở lại, gây thêm phiền não, những gì chưa đến thì chẳng bận lòng, do đó không sợ phiền não, không cần tránh né vì biết chúng không thật có, như huyễn, chúng đến thì rồi sẽ qua, gặp mọi hoàn cảnh đều coi nhẹ, chỗ nào cũng tu được, không chấp chùa mới thanh tịnh, còn chợ ồn ào, nhà ràng buộc. Chỉ cần Tâm tịnh thì nơi nào cũng tịnh, cảnh nào cũng thanh.

III. Nhưng nói về lý thì các Ma Vương chính là thất tình lục dục tiềm ẩn trong tâm khảm chúng sinh, những thói hư tật xấu luôn luôn xui giục chúng sinh làm điều sằng bậy, người tu hành cần tinh tấn sáng suốt đối trị vọng thức của mình, thấy điều xấu thì tránh, điều tốt thì làm (thực hành Tứ Chánh Cần), lần lần vọng tưởng bị điều phục, Chân Tâm sáng tỏ, đó là được giải thoát không thể nghĩ bàn vậy. Những việc khó làm như vậy chỉ có các vị Bồ Tát Ðại Thừa mới kham được. Giáo lý Ðại Thừa khó nghe khó hiểu, cần phát Bồ Ðề Tâm dõng mănh mới tu theo được.

Bồ Tát hiện thân Ma Vương để giáo hóa chúng sinh tu trong cảnh nghịch, mà chính những cảnh nghịch lại giúp người tu trưởng thành nhẫn nhục, phát huy trí huệ, nẩy nở khả năng bất ngờ, vì phải gắng sức tích cực chế ngự nghịch cảnh, vượt qua khó khăn. Mình có trải qua những khó khăn loạn động của cuộc đời rồi mới dạy người khác tu trong cảnh nghịch; nhờ biết các pháp như huyễn nên không sợ, không phiền não, không say đắm, nhờ có trí huệ và từ bi nên có thể ở đời để cứu giúp chúng sinh mà không chán nản mỏi mệt, không sợ dòng đời lôi cuốn, đó là đường lối tu hành của Kinh Duy Ma Cật. Lấy gia đình xã hội làm đạo tràng, lấy chúng sinh tội lỗi làm mục tiêu thân cận giáo hóa, tìm Niết Bàn thanh tịnh trong đời sống xã hội, trong cảnh phiền não vọng tưởng của chúng sinh, chuyển hóa vọng thức của chúng sinh thành Chân Tâm, Tâm Tịnh là Ðạo Tràng, Tâm Tịnh Quốc Ðộ Tịnh. Ðó chính là tôn chỉ và mục đích của Kinh Duy Ma Cật.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

VII. PHẨM QUÁN CHÚNG SINH

I. Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Bồ Tát quán sát chúng sinh phải thế nào?

Chúng sinh là tất cả muôn loài có sự sống, và chúng ta thường thấy có ta, có người, có chúng sinh, có đời sống kéo dài một khoảng thời gian tương đối dài hay ngắn, nhưng ông Duy Ma Cật lại nói chúng sinh không thật có, chỉ là giả tạm mà thôi, ví như người huyễn do ảo thuật biến hóa ra, như trăng đáy nước, như mặt trong gương...

Tất cả những thí dụ do ông Duy Ma Cật nói ra đều diễn tả những vật không có thật.

II. Ngài Văn Thù liền hỏi: Nếu chúng sinh không có thật thì tại sao lại phải thực hành bốn Tâm Vô Lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả)?

Ông Duy Ma Cật giải thích: Tuy biết chúng sinh không thật có, không bền chắc, nhưng các Bồ Tát vẫn thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, dĩ huyễn độ chân, dùng pháp huyễn, độ người huyễn, đắc quả huyễn.
Ðứng về Bản Tánh thì tất cả là huyễn, nhưng đứng về tướng trạng thì vẫn có ta, có người, có phương pháp tu hành, có quả vị để chứng, cho nên các Bồ Tát vẫn lặn lội ở đời để cứu độ chúng sinh. Các Bồ Tát quán chúng sinh như thế, không phải thật, không phải giả.

III. Chúng sinh khác nhau do chịu nghiệp báo gây tạo nặng nhẹ chẳng đồng, nhân lành quả ngọt, nhân xấu quả đắng; Bồ Tát quán sát chúng sinh chỉ là giả có, huyễn hóa, trước có sau không.

Lúc sự việc đương hiện tiền thì là tạm có, vì mắt thấy tai nghe được, khi sự việc đã qua thì coi là huyễn hóa, qua rồi thì bỏ, đừng nhắc tới hoặc đem theo làm gì.
Khi nhớ lại, thấy hình bóng trong tâm thì phải quán mọi sự mọi vật như huyễn, biết là huyễn thì lìa.

Nếu chưa lìa được thương ghét thì việc quán sát chưa thuần thục, cần gắng sức tu thêm, niệm Phật, trì chú, tụng kinh để diệt trừ túc nghiệp, phá hết phiền não.

Khi quán chúng sinh như huyễn rồi, Bồ Tát tâm được tự tại an vui; muốn cho chúng sinh cũng được an vui như mình, Bồ Tát liền dạy chúng sinh quán tất cả như huyễn, đó là do lòng từ chân thật, mong cho chúng sinh được như Bồ Tát, tuy nhiều mà một. Bồ Tát có gì, chúng sinh có nấy, cho đến khi được sự an vui của Phật, rốt ráo tự tại, đó là lòng Từ của Bồ Tát.

IV. Lòng Bi là Bồ Tát làm được công đức gì thì chia với chúng sinh cùng hưởng khiến chúng sinh hết khổ hoặc bớt khổ.

Lòng Hỷ thì tâm được vui khi thấy chúng sinh vui, cùng nhau hoan hỷ, khi việc làm hợp với Chân Lý, không hại người khác, mình và người cùng vui, thân và tâm đều vui vẻ, sự vui này không xây dựng trên cái khổ của người khác.

Lòng Xả là buông bỏ mọi tâm niệm cầu phước báo, hoặc tham sân si. Làm việc lành không mong cầu được đền ơn, quên hết các việc đã làm giúp đỡ người khác; cả đến những việc ác lỡ làm cũng cần quên đi, sau khi thành tâm sám hối, vì nếu cứ bị ám ảnh nhớ đến hoài những việc xấu, lòng buồn rầu khổ sở cắn rứt thì tâm cũng khó thanh thản mà tu hành.
Nếu sau khi giúp ai một việc gì mà mình không xả, không quên, còn mong người ta trả ơn, thì thường bị thất vọng, vì chúng sinh phần đông bội bạc, ơn thì quên chóng, oán thì nhớ lâu. Nếu cứ nhớ là đã làm việc lành rồi thì cho là đủ, không chịu tiếp tục làm thêm nữa.

V. Muốn độ chúng sinh

Sau khi làm các việc ở đời, thấy lo cảnh sinh tử là đáng sợ, Bồ Tát phải y nơi công đức của Như Lai, trụ vào việc cứu độ chúng sinh; trước hết mình phải có đủ oai lực để trừ phiền não, có chánh niệm biết thân vô ngã vô thường nhiều tham dục, hư vọng điên đảo, tuy nói trụ nhưng thật là không trụ, mới lập được tất cả pháp. Ðoạn này giống Kinh Kim Cang: an trụ, mà không an trụ, mới là an trụ.

Y nơi sức công đức của Như Lai, hiểu theo Sự thì có nghĩa là nương tựa vào Ðức Phật, y theo lời dạy của Ngài mà tu hành thành Phật để hóa độ chúng sinh; hiểu theo Lý thì có nghĩa là nương vào Chân Tâm, y theo Phật Tánh mà làm các việc lành lợi ích chúng sinh.

VI. Ðiều quan trọng là phải giữ Chánh Niệm, luôn luôn tỉnh giác, nhớ nghĩ chân chánh, không cho tạp niệm vọng tưởng nổi lên. Có chánh niệm thì biết các pháp không sinh không diệt, thân là gốc của tội lỗi, tâm vô trụ thì mọi pháp đều thành tựu tốt đẹp. Tâm vô trụ đây là trở về với Bản Tâm thanh tịnh. Lúc mê mờ thì quên hết Bản Tâm, hư vọng điên đảo hiện ra chi phối mọi hành vi. Hết mê, tỉnh giác thì Bản Tâm thanh tịnh lại hiện liền, ví như hết mây che thì mặt trăng lại chiếu sáng.

Ðứng về tướng thì có chúng sinh để an trụ cứu độ, nhưng không vì vậy mà Bồ Tát đắm trước trong việc an trụ cứu độ, vì biết chúng sinh là giả huyễn, việc an trụ cứu độ cũng giả huyễn.
Ðứng về Tánh thì không còn chấp việc an trụ cứu độ, tất cả chúng sinh đều có Tánh Phật, sáng suốt như một, vốn vẫn an trụ, không cần cứu độ. Từ chỗ không an trụ, không gốc này mà lập tất cả Pháp, do đó chúng sinh là Không, các pháp cũng là Không, Tánh Không mà giả có. Chân Không Diệu Hữu là như vậy.

VII. Thiên nữ rải hoa trời

Trong kinh thường nói đến việc các vị Trời và Thiên Nữ tung hoa để cúng dường tán thán Phật. Hoa có nhiều mầu sắc rực rỡ, có mùi hương thơm ngát thanh tịnh, thường được dùng để trang hoàng đạo tràng, hoặc dâng lên hiến cúng diễn tả lòng biết ơn hoan hỷ. Ở đây, hoa tượng trưng cho Chánh Pháp của Phật. Thiên Nữ tung rải hoa là ý kinh muốn nói lên sự vui mừng của các vị Trời sau khi được nghe Diệu Pháp liền tuyên lại cho người khác nghe.

Người tu hạnh Bồ Tát sau khi làm được việc gì tốt thì quên ngay đi để tiếp tục làm việc lành khác, vả lại biết tất cả đều là Không, là Một, có liên quan với nhau, nên xả bỏ được hết các quan niệm ích kỷ hẹp hòi.

Khi tu đến chỗ tâm vô phân biệt mới là vô trụ, được tâm thanh tịnh. Không phân biệt thì không dính mắc lời khen tiếng chê, màu sắc đẹp xấu, mùi vị ngon dở... tâm được tự tại. Nếu còn phân biệt, thích nghe lời khen, nhìn mầu đẹp, nếm vị ngọt... thì còn chấp trước, sinh lòng thương ghét, yêu người này, ghét người kia, thích ăn món này, chê món nọ... đó là Thức phân biệt. Bồ Tát dùng Trí, tuy có phân biệt nhưng không sinh lòng thương ghét, đối cảnh thuận hay nghịch tâm bình thản, an nhiên không động.

VIII. Kẻ tăng thượng mạn là những người kiêu căng phách lối, chưa chứng nói đã chứng, chứng ít nói chứng nhiều. Nếu họ vào những nơi trụy lạc thì sẽ bị chìm đắm nên Phật khuyên bọn họ nên lìa dâm nộ si. Còn những người đã chứng đắc thật thì Phật nói tánh của dâm nộ si là giải thoát: Lời của Phật không hề mâu thuẫn.

IX. Ngài Xá Lợi Phất hỏi sao Thiên Nữ không chuyển thân nữ thành nam?

Theo quan niệm cổ xưa, người nữ nặng nghiệp hơn người nam, địa vị trong xã hội và cả trong Giáo Hội Phật Giáo cũng thua kém, các vị Ni phải tuân theo tám điều luật cung kính đối với chư Tăng (Bát Kỉnh Pháp), trước khi thành đạo giác ngộ phải chuyển thành thân nam đã... Nói vậy không phải khinh chê, phân biệt nữ thua kém nam, mà nên hiểu nữ tượng trưng cho sự mềm yếu ủy mị, thiếu cương quyết, còn nam tượng trưng cho sự dõng mãnh cương cường quyết tâm bền chí.

Chuyển nữ thành nam có nghĩa là người tu hành cần phát thệ nguyện lớn, dõng mãnh tinh tấn tu hành, ròng rặc mà tiến, gặp khó không lui, giữ tâm như sắt đá không gì lay chuyển được.

Nữ thân hoặc nam thân không quan trọng, vì thân là giả huyễn, chỉ có trí huệ là hơn hết. Ðoạn này phá cái bệnh chấp tướng nam nữ, nam hơn nữ kém của xã hội thời đó, và chủ trương Cần chuyển Tâm hơn Chuyển Thân.

Thiên Nữ giúp Ngài Xá Lợi Phất phá chấp có sinh có tử, vì theo tướng trạng thì có sinh ra, có già có chết, nhưng đứng về bản thể thì không sinh diệt, chỉ tùy duyên biến hiện. Ví như nước với sóng, có gió thổi thì là sóng, hết gió là nước.

Thiên Nữ cũng phá chấp có tu có chứng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì có gì là được đâu (vô sở đắc); đứng về tướng thì có chúng sinh tu các pháp môn rồi chứng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đứng về Thể Tánh thì tất cả là Một, là Không, là Chân Như, là Bồ Ðề, người tu hành giác ngộ trở về cái tánh sẵn có của mình. Chúng sinh vốn sáng suốt, vốn giải thoát, vì vô minh sinh khởi, một niệm bất giác nổi lên, tự cho là mê muội, mang dây tự trói, cảm thấy sinh tử trầm luân, khi giác ngộ thấy mình trở về quê cũ, ung dung tự tại.

Ðức Thích Ca khi thành đạo dưới cội Bồ Ðề, Ngài nói: "Lạ thay! Lạ thay! Các chúng sinh vốn đầy đủ đức tướng của Như Lai."

Thiên Nữ phá chấp thời gian, thường được chia làm ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại, vị lai là để dễ phân biệt, tạm nói mà thôi, chứ Bồ Ðề (giác ngộ, sáng suốt) không có ba thời, mê là chúng sinh, giác là Phật.
Khi mê thì thấy có Phật, Bồ Tát sáng suốt, có chúng sinh mê mờ, có không gian vô tận (nhiều cõi, nhiều cảnh giới khổ hoặc vui), có thời gian vô cùng (quá khứ, hiện tại, vị lai), nhưng khi giác ngộ thì thấy tất cả chúng sinh đều là Phật (đã thành hoặc sẽ thành), không gian và thời gian đều nằm trong một điểm gọi là Ðương Xứ, tất cả là Một, Nhất Thiết Tức Nhất, Sự Sự Vô Ngại của Kinh Hoa Nghiêm.

X. Kết luận

Không đặng mà đặng: tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, nay giác ngộ thấy mình trở về ngôi vị cũ, có gì là mới đặng đâu.

Ông Duy Ma Cật bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Thiên Nữ đây chính là Bồ Tát thị hiện theo bổn nguyện để giáo hóa chúng sinh, chứ thật ra đã có thần thông du hý, chứng vô sinh nhẫn, tùy ý ứng hiện thân nữ mà thôi.

Thâm ý của đoạn kinh này nhấn mạnh tất cả mọi chúng sinh, dù nghiệp nặng (mang thân nữ), dù chỉ ham tu phước (các vị Trời) đều có thể phát tâm tu hạnh Bồ Tát được.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

VIII. PHẨM PHẬT ĐẠO

Bấy giờ Ngài Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

I. Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật Ðạo?

Ông Duy Ma Cật đáp: Bồ Tát thực hành phi đạo là thông đạt Phật Ðạo.

Phật Ðạo là con đường đưa đến chỗ giác ngộ, là những hạnh lành tốt phước huệ song tu, là Chân Lý nhiệm mầu huyền diệu không thể nghĩ bàn. Thông thường người ta cần bỏ ác làm lành, bỏ trái làm phải; ở đây, ông Duy Ma Cật lại nói ngược lại: Bồ Tát thực hành phi đạo là thông đạt Phật Ðạo.

Phi đạo là chẳng phải Phật Ðạo, là con đường trái ngược xấu ác, là những phiền não tội lỗi nhiễm ô. Ðoạn này người tu phải học hiểu cho cẩn thận rốt ráo, nếu hiểu lầm thì rất nguy hiểm.

Bồ Tát là những bậc siêu phàm đạt đạo, đầy đủ sức phương tiện để thị hiện vào nghịch cảnh, làm những việc phi đạo trái với lẽ thường, nhưng các Ngài vẫn an nhiên tự tại, không dính mắc vào tội lỗi nhơ bẩn.

Các Ngài thị hiện vào nghịch cảnh để làm những việc khó làm, với mục đích cứu độ chúng sinh đang ngụp lặn trong cảnh xấu ác đó.

Bồ Tát ví như mẹ hiền thương con dại, con ngoan cũng thương, con hư còn thương nhiều hơn, người tốt cũng cứu độ, người xấu còn cần được cứu độ gấp hơn, vì vậy các Ngài hiện thân vào cõi đời ô trược, vào nhà điếm quán rượu, vào địa ngục để hóa độ chúng sinh; các Ngài không vào thì ai vào? Ðừng quên là chỉ có các bực Bồ Tát đầy đủ đạo lực và trí huệ phương tiện mới làm nổi những việc khó làm, nếu người thường mà vào những nơi đầy cám dỗ thì dễ bị sa ngã lắm. Khó lắm, phải cẩn thận. Mình chưa đủ bản lãnh rnà đi độ đời thì dễ bị đời độ lại nghĩa là đắm chìm trong đời. Chưa biết bơi thì đừng nhẩy xuống sông vớt người bị chìm, không có mũ áo phòng lửa thì đừng xông vào nhà cháy cứu người, kẻo cùng bị chết thiêu.

II. Thông đạt Phật Ðạo là thực hành những pháp môn tu hành, biết rõ con đường chân chánh phải đi để tới được quả vị Phật, là hiểu tường tận những việc cần làm để thành tựu được mục đích tối hậu của người tu, đó là thành Phật, không phải chỉ riêng mình thành Phật mà tất cả chúng sinh đều thành Phật.

Trong bốn lời thệ nguyện lớn của người phát Bồ Ðề Tâm, lời thề thứ tư là: Phật Ðạo vô thượng thệ nguyện thành. Phần đông chúng ta đều nghĩ rằng muốn thông đạt Phật Đạo, muốn biết rõ con đường dẫn tới quả vị Phật thì phải tinh tấn làm lành lánh dữ, bỏ ác theo thiện, dứt trừ tham sân si... nhưng ở đây, ông Duy Ma Cật lại nói phải thực hành phi đạo, nghĩa là trái đạo, chẳng phải đạo, thế là làm sao, có mâu thuẫn không?

III. Bồ Tát có hai lối thị hiện: hiện thân trong thuận cảnh hoặc nghịch cảnh. Hóa độ chúng sinh trong thuận cảnh thì dễ, gặp người hiền lành tử tế chăm chỉ tu hành thì Bồ Tát chỉ nương theo đó mà hướng dẫn thêm, không khó khăn nhọc mệt, ví như thuyền trôi theo dòng nước, đủ buồm lái người chèo.

Nhưng trong cảnh nghịch thì khó khăn hơn nhiều, làm thế nào mà vào cảnh khổ hoặc vào những nơi nhiều cám dỗ hưởng thụ dục lạc mà tâm không khởi vọng, không chấp trước phân biệt, không bị ngoại cảnh chi phối, vẫn thanh tịnh sáng suốt tự tại.

Các Bồ Tát giữ được tâm như như bất động vì các Ngài tự nguyện thị hiện vào nghịch cảnh chứ không bị đọa lạc lôi cuốn vào, chỉ dùng phương tiện vào đó để khuyên bảo người, làm gương trong sạch dạy dỗ chúng sinh, nhờ bản tâm an định sáng suốt mà làm việc lợi tha.
Bồ Tát vào những nơi đau khổ nhơ uế không phải do nghiệp lực, do luật nhân quả mà chỉ do lòng đại bi, oai thần thị hiện nên không lúc nào bị vô minh chi phối, các Ngài cảm hóa chúng sinh đi theo con đường chân chánh.
Có vào những nơi đó thì mới gần gũi, cảm thông với người trong đó, có thân cận thì nói họ mới chịu nghe, chứ cứ ở nơi xa, cảnh ngoài thì chỉ là nói suông, khó gây ảnh hưởng. Những người đồng cảnh bao giờ cũng thông cảm nhau, nghe nhau hơn.

Tóm lại, các Bồ Tát giả hiện vào cảnh xấu, làm việc xấu, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại, chỉ vì mục đích hóa độ chúng sinh, làm gương cảnh tỉnh chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh tu hành, đó là nghĩa câu Phi Ðạo là Phật Ðạo. Các Bồ Tát làm những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật Ðạo.

VI. Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù: Thế nào là hột giống Như Lai?

Ngài Văn Thù cũng nói y như ông Duy Ma Cật đã nói ở trên, nghĩa là nói ngược lại ý nghĩa thông thường: Thân, vô minh, ái, tham sân si... tất cả 62 món tà kiến và phiền não đều là hột giống Phật cả.

Phiền não đều là hột giống Phật, phiền não tức Bồ Ðề có nghĩa là nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả phiền não chính lại là những vật liệu xây dựng Bồ Ðề. Chúng ta lỡ phạm tội, gây phiền não, chịu khổ đau nên trải qua nhiều kinh nghiệm, không còn tham đắm dục lạc biết là vô thường và bất tịnh nên thành tâm sám hối, tinh tấn tu hành, biến tội lỗi thành công đức, chuyển phiền não thành Bồ Ðề, là hột giống chuyển chúng sinh thành Phật.

V. Rồi ông Duy Ma Cật nhắc lại các hạnh tu khác như Từ Bi, 37 phẩm trợ đạo, Tứ Nhiếp Pháp, Tổng Trì, Bát Chánh Ðạo... để dẹp giặc phiền não, hàng phục bốn thứ ma (phiền não ma, ngũ ấm ma, tử ma, thiên ma, ở đoạn trên đã giải thích) chia ra nội ma và ngoại ma.

Nội ma là những thói hư tật xấu tiềm ẩn trong lòng xúi giục chúng sinh gây tội lỗi phiền não.
Ngoại ma là những chướng ngại, cạm bẫy ở ngoài đời thử thách công phu tu hành, gây khó khăn xem người tu có vượt qua được không? Các Bồ Tát có đủ oai lực để hàng phục bốn thứ ma đó nên các Ngài hiện thân các cõi để dạy bảo chúng sinh.
Có khi các Ngài thị hiện nghịch cảnh việc ma để chúng sinh biết mà xa lìa.
Có khi thị hiện sinh già bệnh chết để chúng sinh hiểu lý vô thường huyễn hóa mà không tham đắm việc thế gian, dù biết tất cả là Không mà vẫn tu về Tịnh Ðộ, thị hiện trong cõi dục giới để dạy chúng sinh tu thiền định, thị hiện làm dâm nữ để phương tiện dạy kẻ háo sắc chán lìa nhục dục...

Bồ Tát hóa hiện mọi thân hình trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch, dùng mọi phương tiện để cứu độ chúng sinh, dẫn vào Phật Ðạo.

VI. Hai câu sau đây nói lên sự khéo léo của Bồ Tát: Trước lấy dục dụ người, sau khiến vào Trí Phật, nghĩa là biết chúng sinh ham ưa những điều khoái lạc, nếu nói trái ý thì không nghe, nên trước tiên Bồ Tát chiều theo ý chúng, ưa trang điểm thì cho đồ trang sức, ưa món ăn ngon thì cho thức ăn vừa ý, thích nghe hát thì cho nghe, thích đọc truyện thì cho đọc, nhưng lần lần chuyển về phía tốt, dạy trang sức bằng đức hạnh, ăn ngon bằng thiền duyệt, hát hay bằng tán thán, đọc truyện bằng kinh điển... tóm lại, chúng sinh ưa gì thì Bồ Tát cho nấy để họ vừa lòng và chịu nghe lời, sau đó mới tùy thuận mà dùng trí huệ dẫn dắt.

Nếu thấy, người uống rượu mà mình la rầy thì chắc chắn họ không nghe, họ bực mình, nào có ích gì. Có khi Bồ Tát thị hiện làm người buôn bán kiếm nhiều lời để bố thí cho chúng sinh, vừa vì lòng từ bi, vừa làm gương cho họ theo đó phát tâm bố thí. Có khi Bồ Tát hiện làm tôi tớ giúp việc cho người để người chủ vừa ý, khởi phát đạo tâm, thấy tôi tớ mình nghèo hèn mà còn làm những việc tốt, huống chi mình giàu có, người chủ bắt chước tôi tớ mà làm việc thiện.

VII. Chỗ sai khác giữa Bồ Tát thị hiện và chúng sinh là Bồ Tát làm mọi việc thiện ác mà không chấp, làm xong là bỏ, còn chúng sinh làm với lòng mong cầu.

Bồ Tát bố thí để giúp người thiếu thốn, chỉ vì muốn họ bớt khổ. Họ cám ơn hay không, họ có phát tâm làm lành hay không? Bồ Tát không chú ý, làm vì biết đó là tốt làm xong là quên. Chúng sinh bố thí mà người ta quên cám ơn là buồn, thối tâm, sau không làm nữa. Như vậy chúng sinh bố thí là để cầu danh, cầu được lời cám ơn, còn chấp ngã, có chút từ bi nhưng thiếu hỷ xả.

VIII. Kết luận

Ðại ý phẩm này là các Bồ Tát làm mọi việc để dẫn dắt chúng sinh vào Phật Ðạo, dùng mọi phương tiện thuận hoặc nghịch, có khi phải thực hành Phi Ðạo các Ngài cũng sẵn sàng chiều theo xu hướng thế gian, rồi lần lần tìm cách xoay hướng về đường ngay lẽ phải.

Phẩm này đề cao công hạnh của các Bồ Tát thị hiện vào đời để hóa độ chúng sinh, thấy khổ không sợ, thấy sinh tử không chán, thấy chúng sinh tội lỗi thì thương, thấy khó khăn nhọc mệt không xa lánh.


Đồng Nát
Bài viết: 2529
Ngày: 29/06/11 10:05
Giới tính: Nam
Đến từ: TP.Ho Chi Minh

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Đồng Nát »

Chào Thien Nhan,
chủ đề ghi là Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.
vào bên trong thì ghi là KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN

Thế nào là "toát yếu" (summary) hở thiện hữu? và thế nào là "giảng luận"(explain) tức giải thích - phân tích?
"Luận giải" thì không thể gọi là "toát yếu" được, mà đây lại là luận giải bởi thầy Thích Thanh Từ.

Đồng Nát ngồi uống trà làm chó canh giữ cái nhà của Đồng Nát...nhưng mà những việc vô lý như thế này diễn ra nhiều lắm, ngớ lơ hoài không được, nói hoài thì cũng kỳ..vì như thế chẳng khác nào mình đi làm cái chuyện vô lý tức là lại đi là chó giữ nhà người khác sao??? Nhà mình không giữ nổi sao lại đi canh giữ nhà người ta? Nhưng mà lại liên quan đến Phật pháp nên chẳng thể ngồi yên...uống trà!

@Thien nhan hay thích làm những chuyện quá sức mình. Tu là tự biết mình, biết chính mình, giản dị vậy thôi.
Lời thật mất lòng. kinhle
Thien Nhan uống trà? ...mời ...mời! cafene


anhshipga
Bài viết: 554
Ngày: 05/08/12 06:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi anhshipga »

Vụ này tôi cũng đã nói ở bên kia rồi ! Đọc nhức cả mắt mà chả giải quyết được vấn đề gì.

Chính là cái lỗi "tri kiến lập tri" đầy rẫy ở khắp nơi. Trên da thịt lành lặn khoét thêm vết thương, trên vết thương còn bồi lửa đốt thêm. ./..,.,


dieungo
Bài viết: 769
Ngày: 11/04/12 22:47
Giới tính: Nam
Đến từ: Hà Nội

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi dieungo »

anhshipga đã viết:Vụ này tôi cũng đã nói ở bên kia rồi ! Đọc nhức cả mắt mà chả giải quyết được vấn đề gì.

Chính là cái lỗi "tri kiến lập tri" đầy rẫy ở khắp nơi. Trên da thịt lành lặn khoét thêm vết thương, trên vết thương còn bồi lửa đốt thêm. ./..,.,
Đúng là con gà chết còn cứng cổ anhshipgà


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.28 khách