Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

anhshipga
Bài viết: 554
Ngày: 05/08/12 06:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi anhshipga »

Gà sống gà chết gà gì anh cũng ship hết, nhất là mấy con gà đá chẳng ra đá, kiểng chẳng ra kiểng! giữ lại làm gì cho tốn cám!


dieungo
Bài viết: 769
Ngày: 11/04/12 22:47
Giới tính: Nam
Đến từ: Hà Nội

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi dieungo »

Gà chết thì làm sao mà gáy được đúng không anhshipga?
anhshipga đã viết:Gà sống gà chết gà gì anh cũng ship hết, nhất là mấy con gà đá chẳng ra đá, kiểng chẳng ra kiểng! giữ lại làm gì cho tốn cám!
Đây gọi là trí không ra trí mà cứ tưởng trí. Trí anhshipgà


anhshipga
Bài viết: 554
Ngày: 05/08/12 06:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi anhshipga »

dieungo đã viết:Gà chết thì làm sao mà gáy được đúng không anhshipga?
anhshipga đã viết:Gà sống gà chết gà gì anh cũng ship hết, nhất là mấy con gà đá chẳng ra đá, kiểng chẳng ra kiểng! giữ lại làm gì cho tốn cám!
Đây gọi là trí không ra trí mà cứ tưởng trí. Trí anhshipgà
:-/ , có trí hay không trí, trí không ra trí mà cứ tưởng là trí, trên trí lập thêm trí, kính thưa các loại trí anh đều ship hết vì anh chỉ biết ship gà.

Gà biết đá thì anh ship cho dân đá gà, gà đẹp thì anh ship cho dân chơi kiểng, gà thịt thì anh bán vô lò mổ, còn những con gà mà không có đặc tính gì cho ra hồn thì anh ship ra chợ Nguyễn Thị Nhỏ để người ta bán làm mồi cho những người nuôi cá sấu, nuôi trăn. Gà nào cũng có công dụng của nó. Đó là cái đạo ship gà! ok ? sa lem?

>:D<


dieungo
Bài viết: 769
Ngày: 11/04/12 22:47
Giới tính: Nam
Đến từ: Hà Nội

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi dieungo »

anhshipga đã viết::-/ , có trí hay không trí, trí không ra trí mà cứ tưởng là trí, trên trí lập thêm trí, kính thưa các loại trí anh đều ship hết vì anh chỉ biết ship gà.

Gà biết đá thì anh ship cho dân đá gà, gà đẹp thì anh ship cho dân chơi kiểng, gà thịt thì anh bán vô lò mổ, còn những con gà mà không có đặc tính gì cho ra hồn thì anh ship ra chợ Nguyễn Thị Nhỏ để người ta bán làm mồi cho những người nuôi cá sấu, nuôi trăn. Gà nào cũng có công dụng của nó. Đó là cái đạo ship gà! ok ? sa lem?

>:D<
Đây là lời lẽ của người học Phật pháp? Thật uổng công 15 năm nghiên cứu Phật pháp.
Ngã vẫn hoàn Ngã. Đúng là đại ngã :))


anhshipga
Bài viết: 554
Ngày: 05/08/12 06:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi anhshipga »

Anhshipga không có học Phật Pháp, cũng không có nghiên cứu Phật Pháp. Anhshipga chỉ biết ship gà. Cái đại ngã của anhshipga là rõ ràng thẳng thắn, cái gì ra cái đó, ship đúng hàng đúng người đúng giá, buôn bán uy tín cho nên mấy con gà nó mới nuôi sống anhshipga, tạo ra GDP cho nền kinh tế, vui vẻ thoải mái trong cái nền kinh tế suy thoái này! Cái đại ngã của anhshipga thấy cũng được đấy chứ nhỉ, không đến nỗi như những người bứt đầu gãi tai phải sống làm sao cho an ổn.


dieungo
Bài viết: 769
Ngày: 11/04/12 22:47
Giới tính: Nam
Đến từ: Hà Nội

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi dieungo »

Trước thì viết thế này
anhshipga đã viết:Vụ này tôi cũng đã nói ở bên kia rồi ! Đọc nhức cả mắt mà chả giải quyết được vấn đề gì.

Chính là cái lỗi "tri kiến lập tri" đầy rẫy ở khắp nơi. Trên da thịt lành lặn khoét thêm vết thương, trên vết thương còn bồi lửa đốt thêm. ./..,.,
Sau thì viết thế kia
anhshipga đã viết:Anhshipga không có học Phật Pháp, cũng không có nghiên cứu Phật Pháp. Anhshipga chỉ biết ship gà. Cái đại ngã của anhshipga là rõ ràng thẳng thắn, cái gì ra cái đó, ship đúng hàng đúng người đúng giá, buôn bán uy tín cho nên mấy con gà nó mới nuôi sống anhshipga, tạo ra GDP cho nền kinh tế, vui vẻ thoải mái trong cái nền kinh tế suy thoái này! Cái đại ngã của anhshipga thấy cũng được đấy chứ nhỉ, không đến nỗi như những người bứt đầu gãi tai phải sống làm sao cho an ổn.
Tại sao phải tự lừa mình lừa người như thế cho khổ ra?
Kẻ thù lới nhất chính là ai vậy anhship gà?


Đồng Nát
Bài viết: 2529
Ngày: 29/06/11 10:05
Giới tính: Nam
Đến từ: TP.Ho Chi Minh

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Đồng Nát »

thien nhan, dieungo, anhshipga uống trà?
mời dieungo 10 tách một chỗ, mời! mời! cafene


dieungo
Bài viết: 769
Ngày: 11/04/12 22:47
Giới tính: Nam
Đến từ: Hà Nội

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi dieungo »

tangbong tặng ĐN nè


Đồng Nát
Bài viết: 2529
Ngày: 29/06/11 10:05
Giới tính: Nam
Đến từ: TP.Ho Chi Minh

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Đồng Nát »

dieungo đã viết:tangbong tặng ĐN nè
cafene mời dieungo uống 10 tách trà một lúc chẳng còn thời gian phóng tâm cãi cọ chấp nhặt đó mà kinhle

cafene mời Thien Nhan uống 20 tách trà một lúc chẳng còn thời gian phóng tâm làm những việc quá sức mình. Chuyện này không có mới đâu thiện hữu à! kinhle

cafene Đồng Nát tự uống 30 tách trà nóng hổi vừa uống vừa thổi để phóng tâm làm những việc không nên làm! kinhle


dieungo
Bài viết: 769
Ngày: 11/04/12 22:47
Giới tính: Nam
Đến từ: Hà Nội

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi dieungo »

tangbong tangbong Tặng ĐN nè


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

IX. PHẨM VÀO PHÁP MÔN KHÔNG HAI

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng:

Thế nào là Bồ Tát vào Pháp Môn Không Hai?

Phẩm này là trọng yếu của Kinh Duy Ma Cật, là trung tâm điểm của giáo lý Ðại Thừa chủ trương bỏ tướng trạng để nhập Tánh Thể. Phẩm này tuy dài nhưng tóm lại có thể chia ra làm ba phần:

1) Phần đầu trình bầy các chủ trương, chỗ thích ý hoặc xu hướng công phu tu tập hoặc sự tu chứng của 31 vị Bồ Tát để vào Pháp Môn Không Hai.
2) Phần thứ hai là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trình bầy ý kiến của Ngài.
3) Phần thứ ba là chủ trương của ông Duy Ma Cật.

Danh từ không hai (Bất Nhị) có nghĩa là không phải là hai, không có đối đãi giữa một và hai. Không Hai có phải là một không? Nói Một cũng không đúng, chỉ tạm dùng thôi, vì nói một là ám chỉ có cái khác, không phải một, là hai, là ba, bốn gì đó. Thí dụ: Một là đối với nhiều, sáng đối với tối, xấu đối với tốt... nói bên này là nghĩ tới bên kia, luôn luôn có hai cái đối đãi với nhau.

I. Chúng ta hãy học vài ý kiến của một số vị Bồ Tát.

1.Bồ Tát Ðức Thủ nói: Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Ngã là ta, ngã sở là cái của ta. Vì chấp có ngã, cái ta là thật có, nên chấp luôn có ngã sở nghĩa là những cái của ta, thuộc về ta, chúng cũng thật có. Chấp có ngã và ngã sở thì phải bảo vệ chúng, cưng chiều chúng, ai đụng đến là không được, mong cho chúng được tốt đẹp, sống lâu giầu bền, hơn mọi người khác. Nhưng mọi mong cầu đâu có được như ý muốn, sinh già bệnh chết, vô ngã vô thường... ai mà tránh được. Càng chấp ngã và ngã sở nhiều thì càng đau khổ lắm. Nếu xả bỏ được lòng cố chấp, hiểu ngã và ngã sở là Không, là không có thật, là giả huyễn, được không vui, mất không buồn, hiểu biết luật Trời, nắm vững Chánh Pháp, an nhiên tự tại, hết khổ được vui, hết đối đãi thị phi, mà vượt lên trên tất cả để thể nhập vào Chân Như vô cùng vô tận, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

2.Bồ Tát Bất Thuấn nói: Thọ, không thọ là hai. Nếu các pháp không thọ thì không có được, vì không có được nên không thủ xả không gây không làm, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Thọ là nhận, là chịu. Không thọ là không nhận, không chịu. Ðược khen thì vui, bị chê thì buồn, đó là có thọ. Khen không vui, chê không buồn là không thọ. Vui buồn, sướng khổ, nổi sân si là tâm bị động, là có thọ.

Nếu đối cảnh mà tâm không động là không thọ. Ăn rau chê nhạt miệng, ăn thịt khen ngon, đó là có thọ.
Chấp ăn chay là phải, ăn thịt là trái cũng là có thọ, vì còn thấy phải trái, khen chê.

Ăn để sống, không chấp chay mặn, không chấp mặn nhạt ngon dở, thì là không thọ. Nói vậy không có nghĩa là khuyến khích người ăn chay trường nên ăn thịt, vì quý vị đó không thể ăn thịt được nữa, mà chủ yếu là giữ tâm không động, không phân biệt, không chấp trước.

Các tu sĩ Bắc Tông ăn chay trường là y theo giới luật Bắc Tông, không nên chấp thọ khó chịu nếu thấy các tu sĩ Nam Tông còn ăn thịt cá do Phật Tử cúng dường, vì Nam Tông chủ trương đi khất thực ai cúng gì ăn nấy, bất tùy phân biệt, không phạm giới cấm. Nếu khởi tâm phân biệt chay mặn cao thấp là còn thọ. Các tu sĩ Nam Tông đắp y, để hở vai bên phải là cung kính. Các tu sĩ Bắc Tông mặc áo phải kín cả hai tay mới là tề chỉnh, hở vai là thô lỗ, không kín đáo đúng phép. Nếu biết tùy phong tục địa phương mà giữ tâm không động, không chê cười, là không thọ. Nếu còn chấp là hở hoặc kín là có thọ. Nơi này cho là phải, là Chân Lý; nơi khác cho là trái, là phi lý. Ðừng chấp thọ, đừng chê bai, đừng động tâm, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

3.Bồ Tát Ðức Ðảnh nói: Nhơ sạch là hai. Thấy được tánh chân thật của nhơ thời không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Nhơ sạch là tùy người, tùy phong tục địa phương, có điều mình cho là nhơ thì người khác cho là sạch. Người Việt Nam ăn cơm bằng bát đũa, cho là sạch; nếu bốc cơm bằng tay thì cho là nhơ. Người Ấn Ðộ bốc cơm bằng tay cho là sạch, dùng bát đũa cho là nhơ. Người lương thiện cho đồng tiền kiếm được một cách bất chính là nhơ, kẻ trộm cướp cho là sạch. (Có người nói: đồng tiền không có mùi. Xin để quý vị phê bình). Nếu còn thấy có nhơ sạch đối đãi là còn chấp tướng, khi thấy được Thể Tánh chân thật của các pháp thời không chấp hai tướng nhơ sạch nữa, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

4.Bồ Tát Phất Sa nói: Thiện, Bất Thiện là hai. Nếu không khởi Thiện và Bất Thiện, vào gốc không tướng mà thông suốt được, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Thiện và Bất Thiện đôi khi cũng khó phân biệt, cùng một việc làm mà người cho là thiện, người cho là bất thiện. Hồi Pháp thuộc, có vị sư giúp những thanh niên ái quốc chống Pháp ẩn náu trong chùa, do lòng từ bi, đó là thiện, nhưng đối với nhà cầm quyền Pháp thì đó là vi phạm luật pháp, là bất thiện. Xử tử kẻ giết người được coi là đúng luật là thiện; đối với người giữ giới sát sinh thì giết một sinh vật đã là phạm tội huống chi giết người.

Giữ tâm thanh tịnh không động không chấp, không ích kỷ thì sẽ không bị thiện ác chi phối, không bị hình tướng bề ngoài che đậy, có cái thấy thông suốt vào Thể Tánh, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

5.Bồ Tát Sư Tử nói: Tội, phước là hai. Nếu thông đạt được tánh của tội thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy, không buộc không mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Tội và phước là được coi trong vòng tương đối mà thôi, vì có việc người này cho là tội thì người khác cho là phước. Giết trâu bò gà lợn để cúng tế thần linh hoặc tổ tiên được coi là đúng tục lệ, có hiếu, nhưng giáo lý Ðạo Phật lại cho là phạm tội sát sinh, không được phước gì cả. Nếu thông đạt được Tánh của tội thì tội cùng phước không khác. Phát huy được trí huệ sáng suốt như ngọc kim cang thì vượt lên trên tội phước tương đối, không còn trói buộc mà phải mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

6.Bồ Tát Thiện ý nói: Sinh tử, Niết Bàn là hai. Nếu thấy được tánh sinh tử thời không có sinh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Ðứng về tướng trạng thì có sinh tử khổ đau. Niết Bàn an lạc. Người nào còn chán sinh tử, ưa Niết Bàn, mà chưa ra khỏi sinh tử chưa tới Niết Bàn thì khổ đau phiền não. Nếu thấy được Tánh của sinh tử là Không, cuộc đời là mộng huyễn, sinh cũng không mà tử cũng không, Niết Bàn cũng không thể ra khỏi vòng sinh diệt mộng tưởng đó là vào Pháp Môn Không Hai.

7.Bồ Tát Phổ Thủ nói: Ngã, vô ngã là hai. Ngã còn không có thời phi ngã đâu có được. Thấy được Thật Tánh của ngã không còn có hai tướng, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Chúng ta chấp có ngã, có cái ta do năm uẩn họp thành. Rồi từ cái chấp ngã đó mà tạo vô lượng tội lỗi. Ðể phá cái chấp đó, Ðức Phật dạy lý vô ngã, giúp chúng sinh xa lìa chấp ngã và ngã sở. Ðó là phương tiện lấy độc trị độc mà thôi. Khi Bồ Tát thâm nhập Trí Huệ Ba La Mật thì thấy năm uẩn là Không, ngã không có thì làm gì có phi ngã. Thật Tánh của các pháp là bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, không có hai tướng, thấy được như vậy là vào Pháp Môn Không Hai.

II.Lần lượt 31 vị Bồ Tát phát biểu ý kiến của mình, tuy có 31 câu trả lời nhưng tất cả đều quy vào một điểm: đứng về tướng thì có phân biệt đối đãi: Ngã và ngã sở, thọ và không thọ, nhơ và sạch, thiện và ác, tội và phước, sinh tử và Niết Bàn... rõ ràng có hai bên, hai phía; nhưng đứng về Thể Tánh, Thật Tướng thì vượt lên trên sự phân biệt, nhìn thấu suốt qua hình tướng để vào Bản Thể Chân Như thì không thấy hai, mà cũng không thấy một (vì thấy một là ám chỉ hai), chỉ thấy tất cả là Không. chẳng phải hai chẳng phải một, đó là Bất Nhị, Không Hai.

Chúng sinh thấy có sinh có diệt là hai, đó là phần tướng. Các Bồ Tát đứng về phần Tánh thấy chẳng có gì sinh chẳng có gì diệt, mà sinh diệt chỉ là hiện tượng giả lập huyễn hóa mộng tưởng, nằm mộng thấy có, tỉnh giác biết là giả, không có thật.

Chúng sinh thấy sắc và không là hai, một bên có một bên không. Khi thâm nhập Bát Nhã thì sắc tức là không, không tức là sắc. Khi đứng về tướng là còn trong vòng đối đãi phân biệt, nhưng đứng về Tánh nghĩa là đặt mình trong Chân Lý rốt ráo tột cùng, nhập vào Lý Thể chân thật duy nhất vắng lặng như như bình đẳng thì không có tướng trạng, không phân biệt tốt xấu tội phước, chẳng có không gian và thời gian, mà chỉ thấy một sự bình đẳng tuyệt vời, một pháp giới bao la vô cùng vô tận vô biên, trong đó tất cả mọi pháp đều dung thông hòa hợp, tất cả là một, một là tất cả, danh từ một cũng là gượng dùng mà thôi, vì nói một là bao hàm có hai, có khác, nhưng ngoài danh từ một thì chẳng có danh từ nào khác để chỉ cái Thể Tánh Chân Như đó.

Chúng ta cần bỏ qua sự dùng giác quan và ý thức tầm thường mà chúng ta vẫn quen dùng để phân biệt mọi vật có hình tướng khác nhau: cao thấp, rộng hẹp, vuông tròn, xấu đẹp, đen trắng... mà phải cố gắng vươn lên trên, dùng trí huệ mà nhận xét đến chỗ tận cùng thì thấy tất cả mọi sự mọi vật đều giả hợp, vô ngã vô thường, không thật có, không bền vững, trước còn sau mất, trước có sau không.

III. Ðó mới là giai đoạn đầu của quá trình chuyển Thức thành Trí, tùng Tướng nhập Tánh. Tiến lên một bước nữa thì thoạt nhìn qua tướng trạng bề ngoài mà đã thấy ngay cái Bản Thể Nhất Như, không cần chờ phân tích các tướng tan hoại. Ðó là cái Lý Thể chân thật duy nhất vắng lặng như như bình đẳng lìa hẳn mọi sai khác đối đãi. Cái Lý Thể đó không thể dùng danh từ ngôn ngữ tâm duyên để diễn tả, nhưng nếu không diễn tả thì làm sao người khác hiểu được, cho nên các Bồ Tát gắng gượng tạm dùng danh từ Không Hai.

Sau khi 31 vị Bồ Tát tạm dùng danh từ ngôn ngữ để diễn tả thế nào là Bồ Tát vào Pháp Môn Không Hai, đến lượt Ngài Văn Thù. Vị Bồ Tát này được xưng tụng là Ðại Trí, có trí huệ lớn nhất trong các hàng Ðại Bồ Tát, Ngài nói: Ðối với tất cả các pháp không nói không rằng, không chỉ không biết, xa lìa các vấn đáp, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

VI. Ngài Văn Thù đã chứng ngộ Chân Lý, biết rằng ngôn từ không diễn tả được Thực Thể phải xa lìa các lời nói năng vấn đáp, phải trải qua kinh nghiệm sống, phải thân chứng mới biết cái Thực Thể bất Sinh bất diệt tiềm ẩn trong mọi loài chúng sinh, cái đó ở Phật không hơn, ở chúng sinh không kém. Tuy Ngài Văn Thù biết các pháp xa lìa các vấn đáp, nhưng Ngài vẫn dùng tiếng nói để đáp lại câu hỏi của các vị Bồ Tát, dùng ngôn ngữ để nói về cái mà ngôn ngữ không diễn tả được.
*************************************************************
V. Ðến lượt ông Duy Ma Cật thì ông im lặng không nói năng chi cả.

Ðây là chỗ cao tột của bộ Kinh này, đưa chúng sinh vượt qua ngôn ngữ mà vào Thể Tánh Chân Như, ví như thiền sư vượt đầu sào trăm trượng để nhảy vào hư không.

Ðây chính là chỗ Tổ Sư Ðạt Ma ngồi tham thiền quay mặt vào tường chín năm không nói, Ngài Ðại Ca Diếp mỉm cười khi Ðức Thích Ca dơ cành hoa sen trong hội Linh Sơn, và chính Ðức Thích Ca cũng diễn tả bằng câu nói: "Trong 49 năm trời thuyết pháp, ta chưa hề nói lời nào".

Ðứng về tướng thì có nói, nhưng đứng về Tánh thì không nói, vì Chân Lý vượt ra ngoài ngôn ngữ thì dùng ngôn ngữ diễn tả Chân Lý làm sao được. Sở dĩ phải dùng lời nói, thuyết pháp, in kinh dịch sách... là tạm dùng phương tiện để dắt dẫn chúng sinh trong bước đầu tu học, sau đó thì người tu phải tự mình tìm một phương pháp thích hợp với căn cơ của mình để vươn lên, vượt ra khỏi vòng tương đối để nhập vào Tuyệt Ðối, đó là vào Pháp Môn Không Hai.

Ông Duy Ma Cật im lặng không nói, nhưng để chứng minh sự nhập Thể cao tột đó, Ngài Văn Thù khen ngợi: đó mới là vào Pháp Môn Không Hai. Ðây là Ngài Văn Thù muốn chỉ rõ cho chúng sinh biết rằng ông Duy Ma Cật đã vượt lên trên ngôn ngữ để nhập Thể Tánh chứ không phải ông Duy Ma Cật không biết, không trả lời nổi câu hỏi. Cũng trong tinh thần siêu việt đó, kinh sách có câu: Ngôn ngữ Ðạo đoạn, nghĩa là lời nói làm đứt Ðạo.

VI. Kết luận

Chủ ý của Phẩm này là khuyên chúng sinh rời bỏ những chấp trước tầm thường trong danh từ ngôn ngữ, mà cần thâm nhập vào nghĩa ẩn của lời Phật trong kinh, vượt ra ngoài khuôn sáo nhỏ hẹp để vươn lên, nhập vào Bản Thể Chân Như vô cùng vô tận. Ðây cũng là chỗ thấy của hàng Bồ Tát phát lòng đại từ đại bi đại hỷ đại xả, vì thấy chúng sinh đang bị đau khổ trong địa ngục vô minh, làm sao các Ngài tự tại an vui được; vì sao? vì Bồ Tát và chúng sinh là một, không hai, Bất Nhị.

Chúng ta là những người còn đứng dưới thấp, các Bồ Tát là những vị đã ở trên cao, sự thấy biết của chúng ta thua kém cạn hẹp, sai lầm, còn sự thấy biết của các Bồ Tát thì cao siêu và đúng sự thật. Nhưng nếu chúng ta chịu tin theo học hỏi và làm đúng các lời dạy của Ðức Phật và chư vị Bồ Tát thì lần lần chúng ta cũng chuyển phần nào đôi mắt thịt thành cặp mắt trí huệ, sự hiểu biết của chúng ta cũng cao rộng thêm lên, sự chấp ngã ích kỷ mỏng dần, rồi có ngày tan vỡ để chúng ta nhập một với Bản Thể của vạn vật, như các giọt nước gặp nhau trong biển cả, lúc đó chỉ còn một vị nước mặn chứ không còn phân biệt nước suối hay nước sông, khi đó chúng ta đã vào Pháp Môn Không Hai vậy.

Ðể áp dụng vào cuộc đời, thực hành Pháp Môn Không Hai trong xã hội, chúng ta đừng nhìn đời sống có hai mặt đối đãi tốt xấu, thiện ác, quen lạ, thân sơ, xuất gia tại gia, chiến tranh hòa bình... cái nhìn đó chưa được toàn diện, còn thiếu sót, mà phải nhìn cuộc sống trong thế gian với Tâm tĩnh lặng, nhờ trí huệ chiếu soi, không thương ghét thù hận, thấy chúng sinh có hình tướng sai khác, tính nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ, nhưng tất cả đều có chung một cái cao cả mà không một danh lừ ngôn ngữ nào diễn tả được, nói ra là sai, vẽ ra là trật, nghĩ đến là biến, gượng dùng các danh từ Bản Thể, Chân Như, Thật Tướng, Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục, Chân Tâm,... tạm chỉ mà thôi.

Chúng ta dùng các phương tiện như niệm Phật, tụng Kinh, trì Chú, tu Thiền, quán tưởng... để diệt trừ vọng tưởng, giữ Tâm được an định, phát huy trí huệ sẵn có, bao nhiêu tạp niệm lắng xuống, chúng ta có cái nhìn đúng đắn về con người, về xã hội, về mọi hoàn cảnh; nhất là biết rõ chúng ta là ai, có mặt trên thế gian này với mục đích gì, và sẽ đi về đâu? Hiểu biết được vậy là chúng ta vào Pháp Môn Không Hai.

Trong phẩm này, các Bồ Tát thị hiện phân biệt nói năng dùng nhiều danh từ ngôn ngữ, để hướng dẫn chúng sinh trong giai đoạn mới học mới tu, rồi Ngài Văn Thù phá chấp ngôn ngữ, nó không thể diễn tả Chân Lý mà chỉ là phương tiện mà thôi, chỉ là chiếc bè đưa qua sông, là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng Ngài vẫn phải dùng ngôn ngữ hóa độ chúng sinh.

Ðến ông Duy Ma Cật mới là tuyệt đối cao siêu, dùng sự im lặng đưa dắt chúng sinh thể nhập Bản Tánh Như Như Bất Ðộng, vì không thể nói ra được.

Chúng ta đang sống trong cuộc đời tương đối, chưa thể làm như ông Duy Ma Cật được, nhưng đừng chấp lời thị phi, lắng lòng soi tâm lặng lẽ, đừng nói nhiều, không nói những lời vô ích làm buồn người khác, mà nên nói ít, nói đúng thời, đúng pháp, làm lợi ích chúng sinh.

Các bậc Thánh Hiền, các người hiểu biết thường ít nói hoặc không nói (tri giả bất ngôn), còn chúng ta nói quá nhiều vì chúng ta chắng biết Chân Lý (ngôn giả bất tri).


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Duy Ma Cật.

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

X. PHẨM PHẬT HƯƠNG TÍCH

I. Phật Hương Tích lấy cái bát ở nước Chúng Hương đựng đầy cơm thơm trao cho Hóa Bồ Tát, vị này cùng chín trăm vạn Bồ Tát ở nước Chúng Hương biến hình, trong khoảnh khắc về đến nhà ông Duy Ma Cật. Ông này hóa hiện ra chín trăm vạn tòa sư tử để mời các Bồ Tát ngồi. Vị Hóa Bồ Tát đem bát cơm thơm dâng lên ông Duy Ma Cật, mùi thơm xông khắp thành Tỳ Xá Li và cả cõi tam thiên đại thiên thế giới...

II. Cơm thơm của Phật Hương Tích ban cho chúng hội trong nhà ông Duy Ma Cật chính là Pháp Thực, là Thiền Duyệt Thực là món ăn tinh thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, chúng ta nghe một bài pháp say sưa quên đói, ngồi thiền cảm thấy no đủ sung sướng, mà Pháp và Thiền thì rộng rãi vô cùng, bao nhiêu người nghe, người tu cũng đầy đủ, không thiếu. Pháp, Thiền, Ðạo, sách vở kinh điển... đều là những món ăn tinh thần cần thiết giúp người tu mở mang trí huệ, tự giác giác tha. Mình được ăn rồi, nếm rồi, nghe rồi thì phải mời người khác cùng hưởng Pháp vị như mình.

III. Ðoạn kinh sau đây so sánh lối nói pháp ở hai cõi Chúng Hương và Ta Bà.

Cõi Chúng Hương ở trên cõi Ta Bà cách xa 42 số cát sông Hằng cõi Phật, nhẹ nhàng siêu việt hơn cõi Ta Bà nhiều, cho nên Ðức Phật Hương Tích không cần dùng ngôn ngữ văn tự để nói, mà chỉ dùng các mùi hương thơm khiến các Trời người vâng giữ luật hạnh (giữ gìn giới luật, không làm việc ác, chỉ làm hạnh lành). Các Bồ Tát cõi đó chỉ việc ngồi dưới cây hương, ngửi mùi hương thơm mầu nhiệm là được Tam Muội Nhất Thiết Ðức Tạng, nghĩa là được chánh định đầy đủ tất cả mọi công đức. Ý kinh muốn nói chúng sinh cõi Chúng Hương nghiệp nhẹ nên chi cần ngửi mùi hương là phát tâm tu hành. Tâm Phật và chúng sinh dễ dàng cảm thông.

Còn chúng sinh ở cõi Ta Bà thì nghiệp nặng, cang cường khó giáo hóa, cứng đầu cứng cổ, nên Ðức Phật Thích Ca phải phương tiện dùng lời nói cứng rắn mạnh mẽ để điều phục họ. Ðây là các phương pháp giáo hóa khác nhau mà chư Phật áp dụng tùy từng cõi.

Chúng sinh dễ dạy thì dùng phương pháp nhẹ nhàng dịu ngọt, chúng sinh khó dạy thì dùng phương pháp oai dũng nặng nề như trách mắng đe dọa, nhưng tất cả mọi phương pháp đều cùng một mục đích là chỉ đường dẫn lối chúng sinh về nẻo giác.

VI. Ở cõi Ta Bà uế trược, Ðức Phật cho thấy có ba cõi sáu đường, có luật nhân quả luân hồi chi phối, để chúng sinh sợ hãi nhàm chán, rồi Ngài dạy quy y giữ giới, làm lành lánh đữ, điều phục thân miệng ý, so sánh phân biệt tội phước, hữu lậu với vô lậu, thế gian với Niết Bàn... Tuy biết rằng phân biệt như vậy là không đúng với Chân Lý Bình Ðẳng Nhất Như, nhưng Ðức Thế Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ngài mà dùng phương tiện tùy theo sở thích của người nghèo hèn để độ thoát chúng sinh: Phật biết chúng sinh ưa gì thì cho nấy, lúc đầu chúng ưa pháp nhỏ, được Hữu Dư Y Niết Bàn đã cho là đủ, nay đã đến thời cơ đem pháp lớn dạy người tu hành tiến tới chỗ giác ngộ rốt ráo.

Vì chúng sinh cõi Ta Bà phước mỏng nghiệp dầy, khó bảo khó dạy, nên các Bồ Tát phải dùng sức phương tiện chịu khổ sở nhẫn nhục, dùng lòng đại bi vô lượng thị hiện sinh vào cõi này, ẩn giấu thân tướng to lớn cao đẹp và hiện ra thân hình bé nhỏ xấu xa, thật là mộl sự hy sinh rất lớn lao mà chỉ các Ðại Bồ Tát mới làm được.

Tuy nhiên, các Bồ Tát ở cõi này làm lợi ích cho chúng sinh trong một đời còn hơn trăm ngàn kiếp tu hành ở các cõi khác, vì sao? Vì chúng sinh cõi Ta Bà có nhiều thói hư tật xấu để Bồ Tát dạy dỗ, chúng sinh các cõi khác không có tật xấu thì Bồ Tát lấy ai mà cứu độ? Ðúng vậy, có người nghèo đói thì mình mới có cơ hội bố thí, có người giận dữ thì mình mới có cơ hội tu nhẫn nhục, có người loạn động thì mình mới có cơ hội dạy họ tu thiền định, có kẻ ngu si thì mình mới có cơ hội khuyên họ tu trí huệ... còn ở các cõi Tịnh Ðộ khác, dân chúng đều thanh tịnh tinh tấn tu hành thì các Bồ Tát không có duyên lành giáo hóa, thiếu mục tiêu làm việc lợi tha.

Bồ Tát cần nương chúng sinh để được sinh về cõi Tịnh Ðộ, cần hóa độ chúng sinh để hoàn mãn nguyện lớn tiến lên quả vị Phật.

V. Muốn vậy, các Bồ Tát cần thành tựu tám pháp lành:

1) Làm lành mà không mong báo đáp (vô cầu).
2) Gánh chịu khổ não cho chúng sinh (từ bi).
3) Ban công đức cho chúng sinh (hỷ, xả, lợi tha).
4) Dưới khiêm nhường chúng sinh, trên cung kính Bồ Tát (trên kính, dưới nhường, hạ mình đối đãi bình đẳng, không ngăn ngại).
5) Cầu học những điều chưa biết (tiến tu, không nghi ngờ).
6) không khinh chê người tu kém, dùng phương tiện dắt dẫn họ tiến thêm.
7) Không ganh ghét tật đố, không khoe mình chê người (điều phục tâm).
8) Trách mình, tha thứ cho người (hướng nội tự tu, hướng ngoại lợi tha), nhất tâm cầu công đức (hướng về giác ngộ giải thoát, không mong phước đức thế gian).

Ðây là tám phương pháp mà các Bồ Tát và tất cả những ai tu hạnh Bồ Tát Ðại Thừa cần phải thực hành, tựu trung vẫn là phá ngã chấp và pháp chấp, phát triển từ bi hỷ xả, lợi tha, không khinh chê kẻ có tội hay người tu còn kém, thượng cầu Phật Ðạo, hạ hóa chúng sinh, điều phục tâm mình, chỉ tự trách mà còn tha thứ cho người, chỉ nhìn lỗi mình không thấy lỗi người, có được chút công đức gì thì chia xẻ cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật Ðạo.
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 18/08/12 08:31 với 1 lần sửa.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách