I. Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ. Hơn nữa, Lục Tổ ngộ đạo từ kinh Kim Cang, nên những lời Ngài dạy rất gần gũi với kinh. Người tu Thiền học kỹ quyển sách này, sẽ không còn nghĩ Thiền là cái gì xa lạ với kinh điển. Vì thế, trong các Thiền viện, chúng tôi đều bắt buộc Thiền sinh phải học kỹ quyển sách này.
Quyển “KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI” được in thành sách, do chúng tôi giảng cho đại chúng tại Thiền viện Thường Chiếu, các Thiền sinh phát tâm ghi chép từ băng nhựa thành tập, trao chúng tôi xem. Chúng tôi thấy tạm được, nên chấp nhận cho in. Tuy nhiên, đây là lời giảng toàn văn nói nên khó được hoàn hảo.
Phần dịch và giảng của chúng tôi khó tránh khỏi nhiều khuyết điểm, vì dịch trong khi giảng; lại tùy chỗ nhận hiểu đến đâu, chúng tôi giảng đến đấy. Vì thế, đây chưa phải là chân lý tối hậu, mong quí độc giả thông cảm cho.
THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU Mùa Xuân năm Nhâm Thân (1992) THÍCH THANH TỪ
II. PHÁP BẢO ĐÀN KINH LƯỢC KHẢO
Tên quyển sách, nói đủ là LỤC TỔ ĐẠI SƯ PHÁP BẢO ĐÀN KINH, nói gọn là PHÁP BẢO ĐÀN KINH. Thông thường, theo Phật giáo, Kinh là chỉ những lời dạy của đức Phật do đệ tử ghi lại. Nếu chư vị Bồ-tát hay chư Tổ sau này viết sách thì gọi là Luận, còn những vị Thiền sư thuyết giảng rồi đệ tử ghi chép lại thì gọi là Ngữ lục.
Lục Tổ được xem như là một Thiền sư, những lời Ngài giảng được ghi lại, lý đáng phải gọi là Ngữ lục, nhưng tại sao quyển sách này lại để là Pháp Bảo Đàn Kinh? Đây là do lời di chúc của Lục Tổ, Ngài dặn các đệ tử: “Sau khi ta tịch, muốn làm lợi ích cho người sau, các ngươi nên ghi những lời ta dạy thành một quyển sách đề tên là Pháp Bảo Đàn Kinh.” Như vậy là y theo lời dạy của Lục Tổ nên quyển sách này để tên như thế.
Quyển Pháp Bảo Đàn do Thiền sư Pháp Hải, đệ tử của Lục Tổ, trụ trì chùa Bảo Lâm ghi chép lại. Thế nên những lời được ghi lại đương nhiên là có khi sơ sót chút ít, có khi được bổ túc cho thành câu, thành văn, vì Lục Tổ chỉ giảng thôi chớ không có viết. Sách sử chép rằng Lục Tổ không biết chữ, do đó Ngài giảng dạy rồi đồ đệ ghi, dĩ nhiên có những lời Ngài dạy mà người ghi bỏ sót, cũng như có những phần mà người sau thấy cần bổ túc cho hay hơn, thành ra có thể sai đi chút ít, đó là việc thường không thể tránh khỏi. Quyển Pháp Bảo Đàn cũng được nhiều nhà dịch ra chữ Việt.
III. Toát yếu Pháp Bảo Đàn Kinh là thế nào?
- Là soạn thảo những tâm yếu chính của nội dụng Pháp Bảo.
- Là soạn thảo những câu tâm đắc và những chữ khó hiểu của Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
- Là học: VĂN TƯ và TU
- Toát yếu không phải là sao chép toàn bộ kinh, toát yếu là học ôn lại.
- Toát yếu không phải dùng để giảng thuyết, toát yếu là ghi lại những bài giảng thực tiển.
- Toát yếu cũng không phải là người dịch lại kinh, hay soạn thảo kinh lại, mà là tóm tắc các yếu lược quan trọng của kinh, do cá nhân của học giả chọn.
Do đó Toát yếu Pháp Bảo Đàn Kinh chỉ là Văn Tư Tu của cá nhân hiểu biết riêng của một học giả, Quí vị có thể tự xem lại bản gốc của Kinh và cũng tự làm cho mình một bộ Toát yếu Văn Tư Tu. Hoặc có thể tham gia cùng nhau chia sẽ trên diễn đàn Phật giáo. Đem đến tự lợi, lợi tha, giác hạnh viên mãn.
Nam Mô Hoan Hỉ Địa Bồ Tát Ma Ha Tát.
IV. Toát yếu nghĩa chữ:
2 Toát yếu : Bồ đề tự tánh: Các hạnh Ba la mật của Bồ tát trong 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai.
15.Toát yếu:Thân là cội bồ-đề, Tâm như đài gương sáng. Luôn luôn phải lau chùi, Chớ để dính bụi bặm. (Kệ, Ngài Thần Tú)
25 Toát yếu: Bồ-đề vốn không cây, Gương sáng cũng chẳng đài. Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính bụi bặm?
29. Toát yếu: Hữu tình lai hạ chủng, Nhân địa quả hoàn sanh. Vô tình diệc vô chủng, Vô tánh diệc vô sanh.
46.Toát yếu: Trích đoạn HT giảng- Tôi thường chỉ quí vị tuy không có vọng tưởng, nhưng mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, tất cả giác quan đều có biết thì làm sao nói không được. Không là không vọng tưởng chớ cái hằng giác đó đâu có không, như thế đâu có rơi vào “vô ký không” như Lục Tổ nói.
48.Toát yếu: Khi HT giảng tới đoạn này, có rất nhiều người còn bị kẹt ở chổ này. Là khi không còn chấp ngã, chấp pháp. Rồi bỏ liều tất cả đời sống xã hội.v.v. Thì sẽ rớt vào thụ động. (Huyển chuyển sao căn bản trí. Từ bi, trí huệ, dũng cảm, theo gương vua Trần, lý là đúng.)
50. Toát yếu: “nhất niệm vạn niên”, là một niệm muôn năm. Bởi vì nhớ là tỉnh, quên thì mê ...Thế nên mình hằng tỉnh hằng giác, hằng nhớ mình đang sống bằng Tánh giác, chớ không phải là không nhớ, không nghĩ.
51.Toát yếu: 10 năm trước, tôi cũng giống như bao người khác, trong bước đầu học Phật, Khi nghe giảng Bát Nhã thì luôn luôn nghĩ tất cả điều do duyên. Rồi chấp tất cả là không. Thật là một lối sống đoạn kiến. Ngày nay, cũng là bài giảng này thì cái thấy của Bát Nhã lại thật là mênh mông trùng trùng, điệp điệp của vạn vật Muôn vật từ tâm mà có tên nên nói tất cả là một; từ tâm đó mà có tên muôn vật nên một là tất cả. Như vậy nhìn hai mặt: một là tất cả là từ tâm mà đặt muôn tên khác nhau; tất cả là một vì tất cả đều gốc từ tâm mà có. Do đó các hàng Học giả học Phật pháp trước phải có căn bản. Học các Kinh A-Hàm trước và Phật học phổ thông cho thật rành rẽ, có căn bản rồi. Thì hãy qua gia đoạn Bát Nhã cũng không muộn.
53. Toát yếu: Xem lại bài giảng, nên dè dặt khi xử dụng pháp Bát Nhã đối với mình và đối với người không hiểu tới Bát Nhã.
102.Toát yếu: Nhưng về sự thì cũng không nên lơ là trì danh, lễ bái hàng ngày. Tuy rằng lý là vậy. Cầu tha lực là nhịp cầu tăng sự tinh tấn. Nếu không có tha lực Phật, thì Hành giả không biết có điểm tựa để hành trì. (Như con nhỏ phải cần sự nuôi dưỡng của cha mẹ vậy. Vì Hành giả chưa đủ sức để tự lực như các bậc thượng căn đã tu nhiều đời. Do đo không có sự thì lý chẳng thành.)
V. Nội dung bài giảng:
2 Toát yếu: phát tâm bồ đề, thì mới thật sự là tu.
12 Toát yếu: Được chút ít phước thì không nên khoe khoan.
18.Toái yếu: Hành động của Tổ Hoằng Nhẫn, và HT giảng thật đúng, muốn cho có sự công bằng, tâm phục, khẩu phục thì phải có trí tuệ bát nhã và không có biên kiến, thân kiến tâm.
19.Toát yếu: Không biết phân biệt thiện ác, thị phi chánh tà, chủ làm gì cũng khen là hùa theo. Chẳn ít lợi mà còn bị đời nói. "Nịnh đầm".
24.Toát yếu: Kẻ hạ hạ cũng có trí thượng thượng, còn người được xem là thượng thượng cũng không có ý trí, đừng tưởng người ở cấp cao là người hay.(Mạt thị vô nhân, sanh tâm ngã mạn. Người đời khinh khi, kiếp này phải chịu.)
25.Toát yếu: Bài kệ của Ngài Thần Tú là ý nói về sự tánh của người tu tiệm thì phải như vậy. Nếu ai ai cũng học theo "Lý" tánh của Ngài Lục Tổ "Biết nói mà không biết làm" thì hơi mệt rồi. Bởi lời này chỉ hướng đến người đã kiến đạo. (Có nghĩa: Ngài Lục Tổ nói được, mà bạn thì không thể bắt chước được, Bởi vì tâm bạn còn đầy ấp thập kiết sử.)
Trang: Truyền Y Bát cho Lục Tổ xong, liền không cho ở hội chúng vì sợ người hại.
Trang: Tổ Huệ Năng giảng Pháp đầu tiên cho Huệ Minh!
Trang: Lục Tổ gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn
Phần II. Phẩm Bát-nhã
Trang: Lục Tổ giảng về Pháp không của Hệ Bát Nhã.
Trang: Thực tánh Bát Nhã thế nào?
Trang: Chân tánh tự dụng
Trang: Phiền não là Bồ-đề đâu có Bồ-đề ngoài phiền não
Trang: Tu Bát-nhã hạnh, trì tụng kinh Kim Cang
Trang: Không có người đại trí, tiểu trí, đại căn tiểu căn
Trang: Trí, ngu đâu có cố định.
Trang: Đức Phật không độ một ai?
Trang: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã.
Trang: Trầm không trệ tịch. Không phải là vô niệm.
Trang: Thuyết thông cập tâm thông
Trang: Nếu thường thấy lỗi của mình tức là hợp với đạo.
Trang: Phật pháp tại thế gian
Phẩm III. Tịnh độ lý và sự nghi vấn:
Trang: Hiểu:Tây phương trong khoảng sát-na
Trang: Tâm bình hà lao trì giới, Hạnh trực hà dụng tu thiền.
Trang: Cải quá ắt sanh trí tuệ
Phẩm IV. Định Tuệ. Thế nào là trực tâm?
Trang: khán tâm quán tịnh
Trang: Vô trụ, Vô tướng, Vô niệm
Phẩm V. Tọa Thiền Phá chấp
Trang: Ngoài lìa tướng là thiền, trong tâm không loạn là định
Trang: Tỉnh giác: Tọa thiền hay Thiền định
Phẩm VI. Sám hối: NGŨ PHẦN PHÁP THÂN HƯƠNG
Trang: VÔ TƯỚNG SÁM HỐI
Trang: TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN
Trang: VÔ TƯỚNG TAM QUI Y GIỚI
Trang: Ba thân Phật
Trang: Bài tụng Vô tướng
Phẩm VII. Cơ Duyên
Phẩm 8: Đốn Tiệm: CHÍ THÀNH
Trang: Thiền sư Chí Triệt:
Trang: Thiền sư Thần Hội:
Phẩm 9: Tuyên chiếu
Phẩm 10: Phó chúc
Trang: Phó chúc: II
Trang: Phó chúc: III
Trang: Phó chúc IV
Trang: Phó chúc V