Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

LỜI ĐẦU SÁCH

I. Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ. Hơn nữa, Lục Tổ ngộ đạo từ kinh Kim Cang, nên những lời Ngài dạy rất gần gũi với kinh. Người tu Thiền học kỹ quyển sách này, sẽ không còn nghĩ Thiền là cái gì xa lạ với kinh điển. Vì thế, trong các Thiền viện, chúng tôi đều bắt buộc Thiền sinh phải học kỹ quyển sách này.

Quyển “KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI” được in thành sách, do chúng tôi giảng cho đại chúng tại Thiền viện Thường Chiếu, các Thiền sinh phát tâm ghi chép từ băng nhựa thành tập, trao chúng tôi xem. Chúng tôi thấy tạm được, nên chấp nhận cho in. Tuy nhiên, đây là lời giảng toàn văn nói nên khó được hoàn hảo.

Phần dịch và giảng của chúng tôi khó tránh khỏi nhiều khuyết điểm, vì dịch trong khi giảng; lại tùy chỗ nhận hiểu đến đâu, chúng tôi giảng đến đấy. Vì thế, đây chưa phải là chân lý tối hậu, mong quí độc giả thông cảm cho.

THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU Mùa Xuân năm Nhâm Thân (1992) THÍCH THANH TỪ

II. PHÁP BẢO ĐÀN KINH LƯỢC KHẢO
Tên quyển sách, nói đủ là LỤC TỔ ĐẠI SƯ PHÁP BẢO ĐÀN KINH, nói gọn là PHÁP BẢO ĐÀN KINH. Thông thường, theo Phật giáo, Kinh là chỉ những lời dạy của đức Phật do đệ tử ghi lại. Nếu chư vị Bồ-tát hay chư Tổ sau này viết sách thì gọi là Luận, còn những vị Thiền sư thuyết giảng rồi đệ tử ghi chép lại thì gọi là Ngữ lục.

Lục Tổ được xem như là một Thiền sư, những lời Ngài giảng được ghi lại, lý đáng phải gọi là Ngữ lục, nhưng tại sao quyển sách này lại để là Pháp Bảo Đàn Kinh? Đây là do lời di chúc của Lục Tổ, Ngài dặn các đệ tử: “Sau khi ta tịch, muốn làm lợi ích cho người sau, các ngươi nên ghi những lời ta dạy thành một quyển sách đề tên là Pháp Bảo Đàn Kinh.” Như vậy là y theo lời dạy của Lục Tổ nên quyển sách này để tên như thế.

Quyển Pháp Bảo Đàn do Thiền sư Pháp Hải, đệ tử của Lục Tổ, trụ trì chùa Bảo Lâm ghi chép lại. Thế nên những lời được ghi lại đương nhiên là có khi sơ sót chút ít, có khi được bổ túc cho thành câu, thành văn, vì Lục Tổ chỉ giảng thôi chớ không có viết. Sách sử chép rằng Lục Tổ không biết chữ, do đó Ngài giảng dạy rồi đồ đệ ghi, dĩ nhiên có những lời Ngài dạy mà người ghi bỏ sót, cũng như có những phần mà người sau thấy cần bổ túc cho hay hơn, thành ra có thể sai đi chút ít, đó là việc thường không thể tránh khỏi. Quyển Pháp Bảo Đàn cũng được nhiều nhà dịch ra chữ Việt.

III. Toát yếu Pháp Bảo Đàn Kinh là thế nào?
- Là soạn thảo những tâm yếu chính của nội dụng Pháp Bảo.
- Là soạn thảo những câu tâm đắc và những chữ khó hiểu của Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
- Là học: VĂN TƯ và TU

- Toát yếu không phải là sao chép toàn bộ kinh, toát yếu là học ôn lại.
- Toát yếu không phải dùng để giảng thuyết, toát yếu là ghi lại những bài giảng thực tiển.
- Toát yếu cũng không phải là người dịch lại kinh, hay soạn thảo kinh lại, mà là tóm tắc các yếu lược quan trọng của kinh, do cá nhân của học giả chọn.

Do đó Toát yếu Pháp Bảo Đàn Kinh chỉ là Văn Tư Tu của cá nhân hiểu biết riêng của một học giả, Quí vị có thể tự xem lại bản gốc của Kinh và cũng tự làm cho mình một bộ Toát yếu Văn Tư Tu. Hoặc có thể tham gia cùng nhau chia sẽ trên diễn đàn Phật giáo. Đem đến tự lợi, lợi tha, giác hạnh viên mãn.

Nam Mô Hoan Hỉ Địa Bồ Tát Ma Ha Tát.


IV. Toát yếu nghĩa chữ:
2 Toát yếu : Bồ đề tự tánh: Các hạnh Ba la mật của Bồ tát trong 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai.
15.Toát yếu:Thân là cội bồ-đề, Tâm như đài gương sáng. Luôn luôn phải lau chùi, Chớ để dính bụi bặm. (Kệ, Ngài Thần Tú)
25 Toát yếu: Bồ-đề vốn không cây, Gương sáng cũng chẳng đài. Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính bụi bặm?
29. Toát yếu: Hữu tình lai hạ chủng, Nhân địa quả hoàn sanh. Vô tình diệc vô chủng, Vô tánh diệc vô sanh.
46.Toát yếu: Trích đoạn HT giảng- Tôi thường chỉ quí vị tuy không có vọng tưởng, nhưng mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, tất cả giác quan đều có biết thì làm sao nói không được. Không là không vọng tưởng chớ cái hằng giác đó đâu có không, như thế đâu có rơi vào “vô ký không” như Lục Tổ nói.

48.Toát yếu: Khi HT giảng tới đoạn này, có rất nhiều người còn bị kẹt ở chổ này. Là khi không còn chấp ngã, chấp pháp. Rồi bỏ liều tất cả đời sống xã hội.v.v. Thì sẽ rớt vào thụ động. (Huyển chuyển sao căn bản trí. Từ bi, trí huệ, dũng cảm, theo gương vua Trần, lý là đúng.)

50. Toát yếu: “nhất niệm vạn niên”, là một niệm muôn năm. Bởi vì nhớ là tỉnh, quên thì mê ...Thế nên mình hằng tỉnh hằng giác, hằng nhớ mình đang sống bằng Tánh giác, chớ không phải là không nhớ, không nghĩ.

51.Toát yếu: 10 năm trước, tôi cũng giống như bao người khác, trong bước đầu học Phật, Khi nghe giảng Bát Nhã thì luôn luôn nghĩ tất cả điều do duyên. Rồi chấp tất cả là không. Thật là một lối sống đoạn kiến. Ngày nay, cũng là bài giảng này thì cái thấy của Bát Nhã lại thật là mênh mông trùng trùng, điệp điệp của vạn vật Muôn vật từ tâm mà có tên nên nói tất cả là một; từ tâm đó mà có tên muôn vật nên một là tất cả. Như vậy nhìn hai mặt: một là tất cả là từ tâm mà đặt muôn tên khác nhau; tất cả là một vì tất cả đều gốc từ tâm mà có. Do đó các hàng Học giả học Phật pháp trước phải có căn bản. Học các Kinh A-Hàm trước và Phật học phổ thông cho thật rành rẽ, có căn bản rồi. Thì hãy qua gia đoạn Bát Nhã cũng không muộn.

53. Toát yếu: Xem lại bài giảng, nên dè dặt khi xử dụng pháp Bát Nhã đối với mình và đối với người không hiểu tới Bát Nhã.

102.Toát yếu: Nhưng về sự thì cũng không nên lơ là trì danh, lễ bái hàng ngày. Tuy rằng lý là vậy. Cầu tha lực là nhịp cầu tăng sự tinh tấn. Nếu không có tha lực Phật, thì Hành giả không biết có điểm tựa để hành trì. (Như con nhỏ phải cần sự nuôi dưỡng của cha mẹ vậy. Vì Hành giả chưa đủ sức để tự lực như các bậc thượng căn đã tu nhiều đời. Do đo không có sự thì lý chẳng thành.)

V. Nội dung bài giảng:
2 Toát yếu: phát tâm bồ đề, thì mới thật sự là tu.
12 Toát yếu: Được chút ít phước thì không nên khoe khoan.
18.Toái yếu: Hành động của Tổ Hoằng Nhẫn, và HT giảng thật đúng, muốn cho có sự công bằng, tâm phục, khẩu phục thì phải có trí tuệ bát nhã và không có biên kiến, thân kiến tâm.
19.Toát yếu: Không biết phân biệt thiện ác, thị phi chánh tà, chủ làm gì cũng khen là hùa theo. Chẳn ít lợi mà còn bị đời nói. "Nịnh đầm".
24.Toát yếu: Kẻ hạ hạ cũng có trí thượng thượng, còn người được xem là thượng thượng cũng không có ý trí, đừng tưởng người ở cấp cao là người hay.(Mạt thị vô nhân, sanh tâm ngã mạn. Người đời khinh khi, kiếp này phải chịu.)

25.Toát yếu: Bài kệ của Ngài Thần Tú là ý nói về sự tánh của người tu tiệm thì phải như vậy. Nếu ai ai cũng học theo "Lý" tánh của Ngài Lục Tổ "Biết nói mà không biết làm" thì hơi mệt rồi. Bởi lời này chỉ hướng đến người đã kiến đạo. (Có nghĩa: Ngài Lục Tổ nói được, mà bạn thì không thể bắt chước được, Bởi vì tâm bạn còn đầy ấp thập kiết sử.)
Trang: Truyền Y Bát cho Lục Tổ xong, liền không cho ở hội chúng vì sợ người hại.
Trang: Tổ Huệ Năng giảng Pháp đầu tiên cho Huệ Minh!
Trang: Lục Tổ gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn

Phần II. Phẩm Bát-nhã

Trang: Lục Tổ giảng về Pháp không của Hệ Bát Nhã.
Trang: Thực tánh Bát Nhã thế nào?
Trang: Chân tánh tự dụng
Trang: Phiền não là Bồ-đề đâu có Bồ-đề ngoài phiền não
Trang: Tu Bát-nhã hạnh, trì tụng kinh Kim Cang
Trang: Không có người đại trí, tiểu trí, đại căn tiểu căn
Trang: Trí, ngu đâu có cố định.
Trang: Đức Phật không độ một ai?
Trang: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã.
Trang: Trầm không trệ tịch. Không phải là vô niệm.
Trang: Thuyết thông cập tâm thông
Trang: Nếu thường thấy lỗi của mình tức là hợp với đạo.
Trang: Phật pháp tại thế gian

Phẩm III. Tịnh độ lý và sự nghi vấn:
Trang: Hiểu:Tây phương trong khoảng sát-na
Trang: Tâm bình hà lao trì giới, Hạnh trực hà dụng tu thiền.
Trang: Cải quá ắt sanh trí tuệ

Phẩm IV. Định Tuệ. Thế nào là trực tâm?
Trang: khán tâm quán tịnh
Trang: Vô trụ, Vô tướng, Vô niệm

Phẩm V. Tọa Thiền Phá chấp
Trang: Ngoài lìa tướng là thiền, trong tâm không loạn là định
Trang: Tỉnh giác: Tọa thiền hay Thiền định

Phẩm VI. Sám hối: NGŨ PHẦN PHÁP THÂN HƯƠNG
Trang: VÔ TƯỚNG SÁM HỐI
Trang: TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN
Trang: VÔ TƯỚNG TAM QUI Y GIỚI
Trang: Ba thân Phật
Trang: Bài tụng Vô tướng

Phẩm VII. Cơ Duyên

Phẩm 8: Đốn Tiệm: CHÍ THÀNH
Trang: Thiền sư Chí Triệt:
Trang: Thiền sư Thần Hội:

Phẩm 9: Tuyên chiếu

Phẩm 10: Phó chúc
Trang: Phó chúc: II
Trang: Phó chúc: III
Trang: Phó chúc IV
Trang: Phó chúc V
HueNang1.jpg
HueNang1.jpg (17.2 KiB) Đã xem 5205 lần
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 22/07/12 01:56 với 15 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

I. Hành Độ
Khi ấy Đại sư đến chùa Bảo Lâm tại Thiều Châu, Thứ sử Vi Cừ cùng với quan liêu vào núi thỉnh Sư đến trong thành, ở chùa Đại Phạm, tại giảng đường vì chúng khai duyên nói pháp. Sư đăng tòa, Thứ sử quan liêu hơn ba mươi người, Nho tông học sĩ hơn ba mươi người, Tăng Ni đạo tục hơn một ngàn người đồng thời làm lễ, nguyện được nghe pháp yếu.

1. HT.giảng: Trong phẩm này Lục Tổ thuật lại cho toàn chúng nghe về sự tích đắc đạo của Ngài. Đây là lần thuyết pháp đầu tiên của Ngài, Đại sư tức chỉ Lục Tổ. Lần đăng tòa đầu tiên này, kể số chúng dự nghe gồm quan liêu hơn ba mươi người, học sĩ hơn ba mươi người, đó là trên sáu mươi người rồi. Còn Tăng Ni đạo tục, đạo tức là người xuất gia, tục là cư sĩ, tất cả cộng lại hơn một ngàn người, tức là thời thuyết pháp đầu tiên hơn một ngàn chúng. Khi đó tất cả đều lễ bái cầu được nghe pháp yếu.
1.Toát yếu: Đại sư tức chỉ Lục Tổ. Lần đăng tòa đầu tiên. Thứ sử quan liêu. Nho tông học sĩ. Tăng Ni đạo tục hơn một ngàn người đồng thời làm lễ.

Lục Tổ bảo chúng rằng:
Này Thiện tri thức, Bồ-đề Tự tánh xưa nay thanh tịnh, chỉ dùng tâm này, thẳng đó trọn được thành Phật.

2.HT.giảng: Ngài nói Tự tánh Bồ-đề của mình, xưa nay thanh tịnh, chỉ dùng tâm Bồ-đề của mình mà tu thì sẽ thẳng đến thành Phật không nghi. Ngài nói thẳng cho chúng ta biết, ai ai cũng có tánh Bồ-đề, nếu biết ứng dụng tu hành sẽ được thành Phật không nghi gì cả.
2.Toát yếu: Xem sự vận hành của: Tâm bồ đề
Này Thiện tri thức, hãy lắng nghe Huệ Năng nói về hành do được pháp. Nghiêm phụ của Huệ Năng bản quán ở Phạm Dương, bị giáng đày ra Lãnh Nam, làm thường dân ở Tân Châu. Thân này bất hạnh, cha lại mất sớm, mẹ góa con côi dời đến Nam Hải, gian nan nghèo khổ, thường ra chợ bán củi. Khi ấy có một người khách mua, bảo gánh đến khách điếm, khách nhận củi xong, Huệ Năng lãnh tiền, lui ra khỏi cửa, thấy một người khách tụng kinh, Huệ Năng một phen nghe lời kinh, tâm liền khai ngộ, bèn hỏi khách tụng kinh gì.

3.HT.giảng: Tiếp đến Ngài yêu cầu chúng lắng nghe Ngài kể lại sự tích, lý do về việc Ngài được pháp. Thuở trước ông thân Ngài cũng làm quan, sau bị cách chức đày ra Lãnh Nam làm dân thường tại Tân Châu. Bất hạnh, cha mất sớm, mẹ già dời về Nam Hải, thật là gian nan nghèo khổ. Ngài thường ra chợ bán củi, một hôm có người khách mua củi, bảo Ngài gánh đến tiệm, nhận tiền xong vừa ra khỏi cửa Ngài thấy một người khách tụng kinh. Một phen nghe lời kinh, tâm liền khai ngộ. Thảnh thơi quá, không có cực như chúng ta hiện nay phải không? Chúng ta nghe năm này sang năm khác mà không khai ngộ chi cả. Ngài chỉ cần nghe người ta tụng liền khai ngộ, mới hỏi khách tụng kinh gì. Chưa biết tên kinh mà đã ngộ rồi!
3. Toát yếu: Ngài kể lại tiểu sử và quê quán, sau đó thì gặp vị khách tụng kinh Kim Cang, Lúc đó Ngài đã kiến đạo về câu văn trong kinh, mà không hiểu là loại kinh gì. Nên...
Khách bảo: “Kinh Kim Cang.” Huệ Năng lại hỏi: “Ở đâu đến thọ trì kinh này?” Khách bảo: “Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai, Kỳ Châu đến. Chùa ấy do Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đại sư làm chủ giáo hóa, đệ tử có hơn một ngàn người, tôi đến đó lễ bái, nghe nhận kinh này. Đại sư thường khuyên kẻ Tăng người tục chỉ trì kinh Kim Cang liền được thấy tánh, thẳng đó thành Phật.” Huệ Năng nghe nói, do đời trước có duyên, mới được một người khách cho Huệ Năng một số bạc là mười lượng để giúp nuôi dưỡng mẹ già và bảo đến Huỳnh Mai tham vấn Ngũ Tổ.

4.HT.Giảng: Trong đoạn trên Ngài kể lý do đi tìm Ngũ Tổ, chúng ta thấy túc duyên của Ngài quá dày, sau này Ngài thường được gọi là Nhục thân Bồ-tát. Sanh trong hoàn cảnh cơ cực nghèo khốn, mồ côi sớm lại dốt nát vì không được học hành, nhưng vừa nghe một câu kinh liền ngộ, tại sao thế? Thường chúng ta cho rằng người có phước duyên mới được sanh trong những gia đình giàu có, mới thông minh học giỏi. Còn sanh trong gia đình nghèo, lại mồ côi sớm, không được học hành thì gọi là vô phước. Tại sao vô phước mà nghe một câu kinh liền ngộ, còn những người có phước nghe hoài mà không ngộ? Như vậy ai hơn ai? Ai có phước hơn ai? Đó là điều chúng tôi muốn nhắc cho tất cả quí vị hiểu để khỏi thắc mắc. Nếu nói một đời này, ra đời, nghe một câu kinh liền ngộ, như trong kinh thường nói: nhất văn thiên ngộ (một nghe ngàn ngộ) thì đã là bậc Bồ-tát rồi. Đã là Bồ-tát, tại sao lại thiếu phước phải sanh trong cảnh côi cút, nghèo nàn, dốt nát? Như vậy Bồ-tát kém phước hơn mình sao? Đó là điều chúng ta thấy đáng hoài nghi, nhưng sự thật không có gì đáng hoài nghi cả. Chúng ta đã nói Ngài là một vị Nhục thân Bồ-tát, mà Bồ-tát giáo hóa chúng sanh luôn luôn tùy nguyện. Có vị sanh trong cung vua có kẻ hầu người hạ rồi chán đời đi tu, như thế để cho người đời thấy rằng cảnh vương giả không câu thúc được các ngài, các ngài vẫn từ bỏ tất cả để đi tu và những người sống trong hoàn cảnh sang cả trông gương đó mà phát tâm. Có khi các ngài sanh trong gia đình trung lưu, học hành chút ít rồi phát tâm xuất gia, như thế những người hạng trung lưu thấy các ngài ở trong hoàn cảnh đó mà tu được thì mình cũng tu được. Có khi các ngài nguyện sanh trong cảnh nghèo nàn, dốt nát mà đi tu để những người nghèo nàn dốt nát thấy mình cũng đồng hoàn cảnh với các ngài thì mình cũng đi tu được.

Tóm lại, Bồ-tát muốn cho tất cả chúng sanh đều phát Bồ-đề tâm, nên có khi thị hiện trong cảnh sang cả, có khi ở trong cảnh bần cùng, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào Bồ-tát cũng tu được cả, đó là việc tùy duyên hóa độ của các ngài. Chúng ta đừng nghĩ rằng ngài ít phước hơn mình, không phải thế, đó là vì nguyện của Bồ-tát, cốt làm sao cho tất cả chúng sanh đều tin rằng mình tu được. Thế là các ngài mãn nguyện. Chúng ta đọc sử thấy có những vị trong gia đình trưởng giả phát tâm tu, có những vị trong gia đình bần hàn phát tâm tu, có vị bỏ quan đi tu v.v... như thế để hiểu ý nghĩa Bồ-tát, chớ không nên cố chấp bảo rằng Ngài thiếu phước mà tại sao Ngài lại mau ngộ. Đó là hiện tượng thị hiện của chư Bồ-tát tùy bản nguyện. Sau khi phát tâm tu, liền có một người bạn giúp Ngài một số tiền để nuôi mẹ. Quí vị thấy, nếu theo thế gian thì Ngài phạm lỗi bất hiếu phải không? Vì có một mẹ một con mà nay bỏ mẹ đi tu, đó là bất hiếu. Như thế chúng ta thấy nếu giữ chữ hiếu thì Ngài không đi tu được, không thể đem lợi ích cho chúng sanh được. Thế nên Ngài phải nhờ người giúp một số tiền gởi lại nuôi mẹ già. Nếu bất hiếu thì buổi đầu Ngài đâu có gánh củi bán để nuôi mẹ, chỉ vì khi ngộ đạo rồi, thấy chỗ cao siêu của đạo, Ngài mới quyết tâm đi học đạo để tự giác ngộ và giác ngộ chúng sanh, vì thế Ngài phải cam nhận lỗi không tròn chữ hiếu.
Toát yếu 4: Tổ Huệ Năng hỏi tên Kinh, và nơi xuất xứ, Sau đó Ngài dự định cầu đạo nơi Tổ Hoằng nhẫn.

Huệ Năng an trí mẹ xong liền từ giã ra đi, không hơn ba mươi ngày liền đến Huỳnh Mai lễ bái Ngũ Tổ.

5. HT. giảng: Ngài từ giã mẹ ra đi, không quá một tháng thì đến Huỳnh Mai lễ bái Ngũ Tổ. Ngày xưa người đi tầm đạo chỉ đi bộ nên đi từ tỉnh này đến tỉnh kia phải cả tháng trời, còn chúng ta hiện nay đi từ đây ra Huế khoảng một tuần lễ là nhiều, vậy mà còn than khổ, than cực. Đối với tâm cầu đạo, chúng ta thật không thể sánh với người xưa.
5. Toát yếu: Xem lại đoạn trích dẫn.

Tổ hỏi: “Ngươi từ phương nào đến, muốn cầu vật gì?” Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Tân Châu thuộc Lãnh Nam, từ xa đến lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác!” Tổ bảo: “Ngươi là người Lãnh Nam, lại là người quê mùa, làm sao kham làm Phật?”

6. HT. giảng: Quí vị thấy Ngũ Tổ là một vị Tổ mà sao Ngài nói bất công vậy? Ngài dư biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, thế tại sao đối với người tới học đạo Ngài lại khinh miệt, bảo rằng ngươi là người Lãnh Nam, là người ở nơi rừng núi, người quê mùa dốt nát, đâu thể kham làm Phật. Tại kiểu cách phong kiến của Ngài như thế hay là Ngài có ý gì? Đó là cách Ngài dọ thử xem sự hiểu biết của người cầu thành Phật này ra sao, nên mới có thái độ như thế.
6. Toát yếu: Xem lại đoạn trích dẫn.

Huệ Năng liền đáp: “Người tuy có Nam Bắc nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc, thân quê mùa này cùng với Hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác.”

7. HT. giảng: Như thế do Ngài nghe một câu mà ngộ, biết được Phật tánh của tất cả đều đồng nhau.
7. Toát yếu: Về hình thức màu da, chủng tộc có sai khác, nhưng Phật tánh thì không. (Chú thích: Phát tánh nói là gì, mà người muốn tìm thấy được Phật tánh thì phải tinh tấn hành trì, ngày đêm mới có thể thấy được.)

Ngũ Tổ muốn cùng tôi nói chuyện, lại thấy đồ chúng hai bên đông, mới bảo theo chúng làm công tác.
8. HT. giảng: Qua câu đối đáp, Ngũ Tổ đã biết khả năng của Ngài như thế nào rồi, nên muốn cùng Ngài nói chuyện, nhưng thấy chung quanh quá đông, đang lắng nghe, e bại lộ rồi hại cho Ngài nên bảo Ngài đi xuống làm công tác, nhưng Ngài chưa vừa ý nên lý luận thêm:
8. Toát yếu: Xem lại đoạn trích dẫn.

Huệ Năng thưa: “Huệ Năng xin bạch Hòa thượng, tự tâm đệ tử thường sanh trí tuệ, không lìa Tự tánh tức là phước điền, chưa biết Hòa thượng dạy con làm việc gì?” Tổ bảo: “Kẻ nhà quê này căn tánh rất lanh lợi, ông chớ nói nữa, xuống nhà trù đi.”

9. HT. giảng: Bấy giờ Ngũ Tổ “nạt kẻ nhà quê lanh lợi, xuống nhà trù đi”, vì Tổ thấy nói thêm là có hại.
9. Toát yếu: Xem lại đoạn trích dẫn. (Chú thích: Phước điền là công đức tu hành tạo thành.)

Huệ Năng lui lại nhà sau, có một người cư sĩ sai Huệ Năng bửa củi, giã gạo, trải hơn tám tháng.

10. HT. giảng: Ngài Huệ Năng mới lui lại nhà sau, có một cư sĩ sai Ngài giã gạo. Có quyển sách khác kể thêm: Một hôm Ngũ Tổ xuống thấy Ngài giã gạo, cột sợi dây ngang lưng đèo thêm một viên đá, vì Ngài ốm quá không đủ sức nặng cho cái chày đạp cất lên, nên phải đeo thêm một viên đá, thấy thế Tổ mới than: “Người cầu đạo quên mình đến thế ư?” Như vậy chúng ta mới thấy công tám tháng giã gạo của Ngài. Trong tám tháng giã gạo, Ngài đã quên mình, làm việc cực nhọc không kể đến thân. Có nơi còn tô điểm thêm rằng: Khi giã gạo Ngài đeo đá nên sợi dây siết vô thịt, lâu ngày thịt bị thúi có dòi, khi Ngài giã gạo, sợi dây chạm vào, dòi rớt ra, Ngài lượm bỏ lên. Những lời này e hơi quá đáng, còn việc Ngài đeo đá giã gạo thì các sách đều có nói.
10. Toát yếu: Xem lại đoạn trích dẫn.
HueNang2.jpg
HueNang2.jpg (13.6 KiB) Đã xem 5166 lần


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Một hôm, Tổ chợt thấy Huệ Năng, mới bảo: “Ta nghĩ chỗ thấy của ngươi có thể dùng, nhưng sợ có người ác hại ngươi, nên không nói cùng ngươi, ngươi có biết chăng?” Huệ Năng thưa: “Đệ tử cũng biết ý của Thầy nên không dám đến nhà trên, để người không biết.”
11.HT giảng: Như thế là thầy trò cảm thông nhau. Nhưng quí vị có thắc mắc về điểm này hay không? Thầy trò nói chuyện thì cứ nói, tại sao lại sợ có người hại? Ở chùa chớ đâu phải ở chỗ tranh giành quyền thế mà sợ bị hại? Thuở trước khi đọc tới chỗ này tôi cũng ngạc nhiên, tại sao nói chuyện đạo lý mà phải sợ có người hại? Sau này tôi mới biết sự thật là như vậy.

Bởi vì đồ chúng của Ngũ Tổ, cả cư sĩ và học chúng khoảng hơn một ngàn người, riêng chư Tăng khoảng năm trăm người, có sách nói bảy trăm vị, ở đấy đã nhiều năm, trong đó lại có ngài Thần Tú là vị Giáo thọ sư, giảng kinh cho học chúng. Cả năm trăm người, Ngũ Tổ chưa chấp nhận một người nào, nay một người cư sĩ quê mùa, từ xa mới đến, nếu được Ngũ Tổ truyền y bát thì thế nào? Cả năm trăm Tăng chúng nghĩ sao? Dĩ nhiên là không chấp nhận được, thế nên sợ hại là vì lý do đó. Cũng vì thế sau này chư Tổ không truyền y bát nữa, nếu còn truyền y bát chắc cái hại cũng còn kéo dài. Tại sao? Vì người được truyền y bát là người xứng đáng làm Tổ. Nhưng Tăng chúng ở chùa đã mấy mươi năm, tu học đã lâu, nay một cư sĩ quê mùa vừa mới đến lại được làm Tổ thì Tăng chúng nghĩ sao? Có tức hay không? Thế nên họ không thể chấp nhận được, mà không chấp nhận được thì phải hành động như thế nào?

-Phải thủ tiêu! Nếu trong chúng có người tu học lâu, hiểu đạo sâu, nay được Tổ truyền y bát thì không có gì phải nghi ngờ, cũng không sợ bị ai hại vì người đó được chúng kính phục, xứng đáng làm thầy. Nhưng đây là một cư sĩ, lại quê mùa nữa, đủ điều kiện để người ta khinh bỉ mà thình lình được làm Tổ thì không ai chấp nhận, thế nên có thể phải bị hại.

Ngũ Tổ hiểu hoàn cảnh đó, Ngài biết người cư sĩ này xứng đáng kế thừa Ngài mà Ngài không dám để cho chúng biết. Nếu như ngài Thần Tú có khả năng như thế, chắc không có gì khó khăn cả. Trường hợp của ngài Huệ Năng rất đặc biệt, nên Ngũ Tổ dè dặt bảo: “Theo ngôn ngữ của ngươi, ta biết ngươi có thể dùng được nhưng e có người ác hại ngươi, nên không nói chuyện với ngươi, ngươi biết chăng?”

Lục Tổ thưa: “Con biết ý của Thầy nên con không dám lên nhà trên.” Con biết phận con nên chỉ ở nhà dưới giã gạo. Như vậy quí vị thấy ông thầy biết hoàn cảnh của người học trò, mà người học trò cũng biết được hoàn cảnh của mình, do đó mới đánh lừa được cả chúng, chớ nếu trong hai người, có một người không biết được hoàn cảnh đó thì có thể bị chúng phát giác sớm rồi.(Hết bài giảng 1)
11.Toát yếu: Xem lại đoạn trích dẫn, HT giảng rất đúng với tình đời. Nếu lộ thân thế thì sẽ gặp nạn dèm pha, ganh ghét đó chuyện thường tình. Những người hiểu biết, cần phải tránh phô trương tài năng của mình, là vậy.
Một hôm, Ngũ Tổ bảo các đệ tử: “Tất cả hãy đến, ta nói với các ông: Người đời sanh tử là việc lớn, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử, Tự tánh nếu mê thì phước nào có thể cứu? Các ông, mỗi người hãy đi, tự xem trí tuệ của mình, nhận lấy tánh Bát-nhã nơi Bản tâm mình, mỗi người làm một bài kệ đến trình cho ta xem, nếu ngộ được đại ý thì ta trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Phải nhanh đi, không được chậm trễ, suy nghĩ tức là không trúng. Người kiến tánh ngay lời nói phải thấy, nếu như người này dù khi múa đao giữa trận cũng được thấy tánh.”

Chúng được chỉ dạy, trở về họp bàn với nhau: “Tất cả chúng ta không cần phải lắng lòng dụng ý làm kệ để trình Hòa thượng, đâu có lợi ích gì? Thượng tọa Thần Tú hiện làm Giáo thọ sư, ắt là người được, chúng ta có gắng làm kệ tụng cũng uổng dụng tâm lực.” Mọi người nghe lời này, thảy đều đồng ý nói: “Chúng ta về sau y chỉ Thượng tọa Thần Tú, nhọc gì phải làm kệ.”
12. HT giảng: Tất cả đều đinh ninh là về sau sẽ y chỉ vị Giáo thọ sư nên không nhọc công làm kệ trình.

Tôi nhắc lại ý nghĩa lời dạy của Ngũ Tổ. Điểm thứ nhất Ngũ Tổ dạy: Người đời sanh tử là việc lớn, phải tìm cách thoát khỏi biển khổ sanh tử, chớ trọn ngày mải lo làm việc phước điền thì phước đó không thể nào cứu được mình, khi mình chưa thấy đạo, phước đó chưa giúp mình giải thoát. Không cứu được là không cứu cho mình giải thoát sanh tử.

Muốn ra khỏi biển khổ sanh tử, mỗi người phải tự phát trí tuệ của chính mình, trí tuệ đó phát khởi, mới thoát khỏi biển khổ sanh tử; nếu chúng ta mải lo việc phước điền thì phước điền đó chỉ giúp chúng ta bớt nghèo, bớt khổ ở trong sanh tử thôi, chớ không giải thoát sanh tử.

Tổ bảo tiếp: “Như vậy mỗi người phải về làm một bài kệ đến trình, nếu người nào làm bài kệ đúng ý, ta sẽ truyền y pháp làm Tổ thứ sáu.” Nghe như thế cả đại chúng đều xôn xao.

Tại sao các năm về trước Ngài không bảo trình kệ mà ngay lúc này Ngài bảo trình kệ? Quí vị thấy ý gì trong việc đó chưa? Trước khi vị cư sĩ này tới hỏi đạo, Ngài không bảo chúng trình kệ, khi có vị cư sĩ này thì Ngài lại bảo chúng trình kệ.

Dĩ nhiên chúng ta thấy rõ ý của Ngài. Khi biết có người xứng đáng kế thừa, Ngài mới bảo chúng trình kệ để thử xem mọi người trình như thế nào để Ngài chọn. Thế nên đại chúng xôn xao bàn tán phải trình kệ như thế nào. Vì vậy tiếp theo Tổ dạy thật là kỹ.

Điểm thứ hai Ngũ Tổ bảo rằng: Người thấy tánh dù ở trong chỗ binh đao vẫn thấy tánh chớ không mất. Người thật tình được đạo thì ở chỗ nào cũng thấy đạo, chớ không phải nói rằng ngồi chỗ vắng mới thấy đạo, đến chỗ ồn thì hết thấy, như thế chưa phải là thấy đạo.

Quí vị phải nhớ như vậy. Dù ở cảnh nào, thấy đạo cũng vẫn là thấy đạo, vì đạo ở ngay nơi mình. Mình thấy nó thì ở đâu cũng thấy. Ngồi chỗ vắng cũng có nó, đến chỗ ồn cũng có nó, chớ đâu phải chỗ ồn không có đạo, chỗ vắng mới có đạo.

Sở dĩ đến chỗ ồn không thấy đạo là vì mình thấy ồn. Thấy ồn tức thấy ở ngoài, chớ thật tình chúng ta thấy cái chân thật của mình thì ở đâu cũng có đạo, không phải đợi đến chỗ vắng vẻ mới có.

Quí vị phải nhớ kỹ như vậy. Đó là chỗ Ngũ Tổ chỉ dạy cho tất cả chúng, nhất là Ngài bảo: Nếu suy nghĩ thì không trúng. Làm kệ mà ngồi cắn bút, bóp trán suy nghĩ thì điều đó không đúng rồi.
Vì thế gần đây tôi hay chê những vị mới tu học sơ sơ hay làm thơ. Tại sao? Các Tổ ngày xưa không phải là nhà văn, nhà thơ chi cả, nhưng mỗi hành động đều đúng với lẽ thật nên vừa xuất khẩu là hợp ý Tổ, không phải ngồi bóp đầu bóp trán, vì vừa ngồi bóp đầu bóp trán là sai rồi.

Khổ nỗi hiện nay có một số người tu thiền sơ sơ, lâu lâu tổ chức uống trà, người này làm thơ đưa người kia xem, người kia làm thơ trình người nọ xem rồi phê bình nhau v.v... và cho đó là mình làm thơ thiền, làm kệ thiền...

Đó là thiền gì? Là thiền loạn tưởng chớ không phải thật là thiền. Thật là thiền thì khi đối cảnh liền phát hiện chớ không đợi suy nghĩ. Vì người thấy được lẽ thật nói điều gì cũng đúng lẽ thật, còn người chưa thấy lẽ thật dù suy nghĩ thế nào cũng không đúng.

Thí dụ như chúng ta có đôi mắt sáng nhìn thấy rõ bình bông trên bàn, nếu có người hỏi bình bông như thế nào, dù chúng ta không tả rõ tất cả chi tiết, nhưng chúng ta nói bình bông màu xanh, màu vàng... chúng ta cũng nói đúng.
Trái lại, nếu tôi hỏi một người mù bình bông trên bàn như thế nào thì dù họ suy nghĩ thế mấy cũng không đúng, dù có nghe người ta nói họ suy nghĩ theo cũng không đúng.
Thế nên đã thấy thì dù nói đơn sơ cũng đúng, còn không thấy dù cố suy nghĩ thế mấy cũng vẫn không đúng.

Chỗ này không phải chỗ suy nghĩ mà được, nhưng nhiều người lại chuộng suy nghĩ, cho suy nghĩ ra được lẽ đạo. Đó là điều lầm lẫn lớn.
Thế nên cái thấy đạo là tự thấy, chớ không phải suy nghĩ, do đó Ngũ Tổ mới quở: Không nên có dụng tâm, nếu người thấy tánh dù ở giữa trận cũng thấy.

Sau khi nghe Ngũ Tổ dạy, tất cả chúng đều xôn xao bàn với nhau, chúng ta có một vị Giáo thọ sư, trên là Tổ, dưới là vị Giáo thọ sư, Tổ chọn vị này dạy chúng ta, hẳn nhiên vị này phải như thế nào rồi, người dạy chúng ta sẽ là người được kế thừa không còn nghi ngờ gì nữa.

Chúng ta đã học với ông ấy tức nhiên ông ấy đâu có dở, dù chúng ta có làm cũng vô ích, hãy nhường ông ấy cho xong. Đó là một cái thế dồn vị Giáo thọ sư này đến chỗ bất khả kháng. Ông không muốn trình, nhưng toàn chúng đều không làm thì làm sao? Hoàn cảnh đã đưa Thần Tú đến một cái thế khó xử, vì chính Ngài cũng còn nghi ngờ không chắc là Ngài sẽ được Tổ chấp nhận.

12. Toát yếu: Bài giảng của HT có rất nhiều lợi ích thực tiển, thật là sát nghĩa. Đạo mà đem ra làm thơ thì không phải đạo. Đó là vọng tưởng kiến thức. Nếu người đã kiến đạo thì nói, nghĩ, làm... điều là đạo. Cần gì phải khoe khoan kiến thức! Ngài Thần Tú là bậc giáo thọ lổi lạc mà còn chưa nghĩ mình "Có chắc được hay không nửa, huống hồ là người phàm tục". Do đó hành giả tạm quán xuyến lại tâm tư rồi đọc tiếp bài của HT. giảng... Cũng chưa muộn.
ChuaNamHoa.jpg
ChuaNamHoa.jpg (23.42 KiB) Đã xem 5089 lần


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Trong thời Truyền Y Bát và thi kệ:
Thần Tú suy nghĩ: Các người đều không trình kệ vì ta làm Giáo thọ sư cho họ, ta cần phải làm kệ trình lên Hòa thượng; nếu không trình kệ thì Hòa thượng đâu biết được kiến giải trong tâm ta cạn hay sâu. Ý ta trình kệ cầu pháp thì tốt, cầu làm Tổ thì xấu, vì đồng với tâm của kẻ phàm, muốn cướp được ngôi vị Thánh không khác, nếu chẳng trình kệ thì trọn không được pháp. Rất khó! Rất khó!
12.HT giảng: Đó là Ngài tự lượng ý Ngài: Nếu trình kệ để cầu được pháp đó là điều tốt, nếu trình kệ để cầu làm Tổ đó là xấu vì còn ham danh, ham lợi không khác kẻ phàm phu. Thật là khó vì nếu không trình kệ thì thầy không biết ý mình làm sao thầy truyền pháp, nhưng làm kệ, xem như mình muốn làm Tổ!
13. Toát yếu: Xem lại trích dẩn, và HT giảng. "Cầu Pháp và Cầu danh".
Trước nhà của Ngũ Tổ có một hành lang ba gian, Ngũ Tổ nghĩ mời ông Cung Phụng Lư Trân đến vẽ Lăng-già biến tướng và Ngũ Tổ huyết mạch đồ(1) để lưu truyền cúng dường. Ngài Thần Tú làm kệ rồi, mấy phen muốn trình, đi đến nhà trước thì trong tâm hoảng hốt, khắp thân đổ mồ hôi, nghĩ trình chẳng được. Trước sau trải qua bốn ngày, đến mười ba lần, trình kệ không được.
14.HT giảng: Tại sao? Ai ngăn mà trình không được? Đó là tại nghi bài kệ của mình chưa chắc là được, vì mình không có tự ngộ, do suy lý mà nói thì không tin lời mình là đúng nên muốn trình lại ngại, vì thế trong bốn ngày, mười ba lần đến cửa rồi thối lui, không trình được, như vậy cái khổ của Ngài lúc đó thật vô cùng!
14.Toát yếu: Nghi là một phiền não thứ năm trong ngũ độn sử. (thuộc ác pháp)
Thần Tú mới suy nghĩ: Chẳng bằng đến dưới hành lang viết (bài kệ), Hòa thượng đi qua xem thấy, nếu chợt bảo rằng hay thì mình ra lễ bái thưa: Của Thần Tú làm; nếu nói không kham, thật uổng công ở núi mấy năm, thọ người lễ bái lại tu đạo gì?
15.HT giảng: Bởi vì Ngài bán tín bán nghi chưa tin mình được đạo, nay phải trình thẳng, Ngài sợ nếu Ngũ Tổ bảo chưa được thì còn gì thể diện, nên kế hay nhất là nơi hành lang Ngũ Tổ thường đi qua, Ngài lén viết bài kệ lên đó.
Nếu Ngũ Tổ xem rồi hỏi ai làm bài kệ hay quá thì Ngài ra đảnh lễ thưa: Bạch con làm! Còn nếu Ngũ Tổ chê thì lánh mặt cho rồi, mặt mũi nào nhìn đại chúng. Thật là uổng công ở núi! Ngài nghĩ đó là kế an toàn nhất. Thế nên người dở mà ở địa vị thấp thì thật dễ, còn ở địa vị cao thật khó xử vô cùng. Người ta đã suy tôn mình làm thầy, nếu mình làm không tròn trách nhiệm, mặt mũi nào nhìn học trò. Đó là cái khổ tâm của người lớn mà chưa thật lớn!
15.Toát yếu: Thế nên người dở mà ở địa vị thấp thì thật dễ, còn ở địa vị cao thật khó xử vô cùng.
Canh ba đêm ấy, không cho người biết, Ngài tự cầm đèn viết bài kệ ở vách phương Nam để trình chỗ tâm mình thấy được. Bài kệ rằng:

Thân là cội bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi bặm.
16. HT giảng: Thế thì thật hay! Ví dụ thân mình như cây bồ-đề, tâm như đài gương sáng, cũng hay chứ! Và đài gương sáng muốn cho sáng mãi thì phải làm thế nào? Phải lau, phải chùi, chớ để dính bụi. Như vậy trên phương diện tu hành, bài kệ này thật là hay. Người mới đọc qua thì thấy bài kệ thật hay, nào những hình ảnh cụ thể, thân mình giống cây bồ-đề, tâm mình như đài gương sáng, nào khuyên mình tu một cách cụ thể, hằng ngày lau gương đừng để dính bụi. Nhưng đối với người thấy tánh thì bài kệ này chưa thấy tánh. Tại sao? Gương mờ phải lau, đang lau thì làm sao thấy tánh? Nếu thấy tánh thì không còn lau nữa. Tại sao? Vì Thể tánh đó bụi không dính được, còn nghĩ như mặt gương phải lau mãi là chưa thấy tánh. Chúng ta dốt mà đọc qua còn biết Ngài chưa thấy tánh.
16. Toát yếu: Xem lại bài HT giảng.
Ngài Thần Tú viết kệ xong, liền trở về phòng, mọi người đều chẳng biết. Thần Tú lại suy nghĩ: Ngày mai Ngũ Tổ thấy bài kệ, nếu hoan hỉ tức ta cùng pháp có duyên, nếu nói không kham, tự là ta mê, nghiệp duyên đời trước nặng nề, không hợp được pháp, thật là Thánh ý khó lường. Trong phòng suy nghĩ, ngồi nằm chẳng an cho đến canh năm.
17.HT giảng: Như thế là suốt đêm Ngài trằn trọc mãi, không ngủ được. Viết bài kệ rồi Ngài cũng vẫn bất an, thật là khổ tâm, vì không biết ngày mai Ngũ Tổ khen hay chê, khen thì còn được, nếu chê thì còn mặt mũi nào, thế nên ngồi nằm không an mãi đến canh năm.
Ngũ Tổ đã biết Thần Tú vào cửa chưa được, không thấy Tự tánh.
18.HT giảng: Thật ra thầy lúc nào cũng biết rõ học trò, nên tuy bảo làm Giáo thọ dạy chúng, nhưng biết là ngài Thần Tú chưa vào cửa nổi. Vì biết rõ như thế nên tuy bảo làm kệ nhưng thật ra Ngũ Tổ không nhắm vào ngài Thần Tú, mà Tổ có chỗ nhắm khác. Để cho công bằng Tổ phải tuyên bố cho tất cả chúng trình kệ, nếu không như thế mà riêng truyền y pháp cho một người nào khác thì chúng sẽ thắc mắc. Khi nào chúng trình kệ không được, Tổ truyền y pháp cho người khác, họ mới không thắc mắc.
18.Toái yếu: Hành động của Tổ Hoằng Nhẫn, và HT giảng thật đúng, muốn cho có sự công bằng, tâm phục, khẩu phục thì phải có trí tuệ bát nhã và không có biên kiến, thân kiến tâm.
Sáng hôm sau, Tổ gọi ông Lư Cung Phụng đến hành lang phía Nam để vẽ đồ tướng trên vách, chợt thấy bài kệ, Ngài bảo Cung Phụng rằng: “Thôi chẳng cần phải vẽ, nhọc công ông từ xa đến. Trong kinh có nói 'phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng', chỉ để lại một bài kệ này cho người tụng đọc thọ trì, y bài kệ này tu thì khỏi đọa trong ác đạo, y bài kệ này tu thì được lợi ích lớn.” Khiến đồ đệ thắp hương lễ bái cung kính và tụng đọc bài kệ này tức được thấy tánh. Môn nhân tụng bài kệ đều khen: “Hay thay!”
19.HT giảng: Đây là kế của Ngũ Tổ, nếu Tổ không khen thì không làm sao biết được tác giả vì dưới bài kệ đâu có ký tên, thế nên Tổ mới khéo bày kế đánh lừa mọi người. Tổ bảo: Nhọc công Cung Phụng từ xa đến, kinh Kim Cang có nói, phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng, thôi ông không cần phải vẽ đồ tướng, hãy để bài kệ này cho chúng đọc, người nào y đó tu hành sẽ khỏi đọa trong ba đường ác, sẽ được lợi ích, sẽ thấy tánh.
Tổ lại bảo đồ đệ đốt hương kính cẩn lễ bái bài kệ. Nghe như thế dĩ nhiên là ngài Thần Tú mừng không kể xiết, Ngài phải nhận là của Ngài làm chớ đâu còn ẩn tránh nữa, vậy là Ngài đã mắc kế của Ngũ Tổ rồi! Khi đó tất cả môn nhân đều tụng và đều khen bài kệ hay.

Đệ tử thì thường như thế. Thầy khen điều gì hay là đồ đệ cũng khen theo, chớ không biết hay ở điểm nào, nghe thầy tán dương việc gì thì đệ tử cũng tán dương theo, đó là bệnh chung! Người học trò luôn luôn lệ thuộc thầy, nói theo thầy chớ không biết rõ đâu là đúng, đâu là sai.
19.Toát yếu: Không biết phân biệt thiện ác, thị phi chánh tà, chủ làm gì cũng khen là hùa theo. Chẳn ít lợi mà còn bị đời nói. "Nịnh đầm". :D
Đến canh ba, Tổ mới gọi Thần Tú vào trong thất hỏi: “Kệ đó, phải ông làm chăng?” Ngài Thần Tú thưa: “Thật là con làm, chẳng dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong Hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?”
20.HT giảng: Ngài nghĩ rằng Ngũ Tổ khen như vậy là chấp nhận Ngài làm Tổ rồi, nhưng vì khiêm nhường nên Ngài thưa: Bạch con làm, nhưng con không dám mong cầu Tổ vị, chỉ trình để Thầy xem con có chút ít trí tuệ chăng? Đó là lời nói khiêm nhường, không ngờ:
20.Toát yếu: Xem lại bài, và ngẩm nghi trong đời mình có bao nhiêu lần như vậy, xẩy ra.
Tổ bảo: “Ông làm bài kệ này chưa thấy được Bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào được trong cửa, kiến giải như thế tìm Vô thượng Bồ-đề, trọn không thể được. Vô thượng Bồ-đề phải được ngay nơi lời nói mà biết Bản tâm mình, thấy được Bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt, đối trong tất cả thời mỗi niệm mỗi niệm tự thấy, muôn pháp đều không kẹt, một chân tất cả đều chân, muôn cảnh tự như như, tâm như như đó tức là chân thật. Nếu thấy được như thế tức là Tự tánh Vô thượng Bồ-đề. Ông hãy đi, một hai ngày sau, suy nghĩ làm một bài kệ khác đem lại tôi xem, bài kệ của ông nếu vào được cửa, sẽ trao y pháp cho ông.” Ngài Thần Tú làm lễ lui ra, trải qua mấy ngày, làm kệ cũng không thành, trong tâm hoảng hốt, thần tư bất an, ví như ở trong mộng, đi ngồi không vui.
21.HT giảng: Như thế là Ngũ Tổ thật khéo, thật tâm lý, nếu không thì việc lớn hỏng hết. Nếu buổi sáng giữa đông đảo chúng vừa khen bài kệ xong, Ngũ Tổ gọi ngài Thần Tú lại hỏi: “phải ông làm bài kệ này không”, dĩ nhiên ngài Thần Tú sẽ thưa: “bạch con làm”, lúc ấy Ngũ Tổ bảo rằng: “bài kệ này không vào cửa được” thì còn gì thể diện của ngài Thần Tú.

Tuy khen bài kệ, tuy biết tác giả mà Tổ không hỏi liền, đợi đến canh ba vắng vẻ Tổ mới gọi ngài Thần Tú vào hỏi. Khi ngài Thần Tú nhận là bài kệ của Ngài, Tổ mới bảo ông chưa vào cửa được. Lúc đó Ngài mới kinh ngạc, tuy kinh ngạc mà không mất thể diện với đồ chúng. Đó là cái khéo của Ngũ Tổ, thật là khéo! Thế nên người lớn muốn cho vẹn toàn với đồ đệ cũng là cực lắm.

Nếu người nóng nảy thì gọi ra hỏi và phê bình ngay giữa đồ chúng đông đảo, như thế chắc ngài Thần Tú không chịu đựng nổi sự hổ thẹn. Tổ bảo tiếp: Thôi ông trở về vài ngày làm một bài kệ khác đem đến trình, nếu được ta sẽ trao y pháp cho. Ngài Thần Tú lễ rồi lui ra. Bấy giờ Ngài còn tinh thần nào làm kệ nữa. Bao nhiêu cố gắng mới làm được bài kệ đó, nay Ngũ Tổ không chấp nhận thì còn tinh thần nào để làm bài kệ thứ hai.
21. Toát yếu: Xem lại ý của Tổ và bài HT giảng, thì lời lẽ nói khéo của người xưa thật là hay. Nên xem lại các bài học "Tứ nhiếp pháp" trong Phật học phổ thông.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Tổ Huệ năng viết kệ và kệ bị xóa, tại sao?
Lại hai ngày sau có một chú bé đi qua chỗ giã gạo, đọc bài kệ này. Huệ Năng vừa nghe liền biết bài kệ này chưa thấy được Bản tánh.
22.HT giảng: Người đến được cảnh đó nghe bài kệ liền biết tác giả bài kệ chưa vô cửa được. Đó là đệ tử mà còn biết, huống nữa là ông thầy!
Tuy chưa nhờ chỉ dạy, mà sớm đã biết được đại ý, bèn hỏi chú bé: “Tụng đó là kệ gì?” Chú bé đáp: “Cái ông nhà quê không biết, Đại sư nói: Người đời sanh tử là việc lớn, muốn được truyền y pháp, khiến đệ tử làm kệ trình Ngài xem, nếu ngộ được đại ý, liền trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú viết bài kệ Vô tướng ở vách hành lang phía Nam, Đại sư khiến người đều đọc, y kệ này tu sẽ khỏi đọa đường ác, y kệ này tu sẽ có lợi ích lớn.” Huệ Năng thưa: “Thượng nhân, đã hơn tám tháng, tôi ở nhà trù giã gạo, chưa từng đến nhà trên, mong thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ lễ bái.”
23.HT giảng: Thật là lời nói khiêm nhường! Chú bé mà Ngài gọi là thượng nhân. Ngài nói: Tôi ở đây làm công quả hơn tám tháng trời, chưa lên tới nhà trên, nay nhờ thượng nhân dẫn tôi đến lễ bái bài kệ để kết duyên. Dĩ nhiên là chú bé thích rồi.
Chú bé dẫn Ngài đến trước bài kệ lễ bái. Huệ Năng bảo: “Huệ Năng không biết chữ, nhờ thượng nhân vì tôi đọc.” Khi ấy có quan Biệt giá ở Giang Châu họ Trương tên Nhật Dụng liền to tiếng đọc. Huệ Năng nghe rồi bèn nói: “Tôi cũng có một bài kệ, mong Biệt giá vì tôi viết.” Quan Biệt giá nói: “Ông cũng làm kệ nữa sao? Việc này thật ít có!” Huệ Năng nói với Biệt giá rằng: “Muốn học đạo Vô thượng Bồ-đề, không được khinh người mới học. Kẻ hạ hạ cũng có cái trí thượng thượng, còn người thượng thượng cũng không có ý trí. Nếu khinh người thì có vô lượng vô biên tội.” Quan Biệt giá nói: “Ông chỉ tụng kệ, tôi vì ông viết, ông nếu được pháp, trước phải độ tôi, chớ quên lời này.”
24.HT giảng: Quan Biệt giá ban đầu ngạc nhiên nên nói: Ông cũng có kệ nữa sao? Thấy quan Biệt giá ngạc nhiên, ngài Huệ Năng biết ông này khinh người, cho mình là quê mùa dốt nát nên Ngài mới bảo: Kẻ hạ hạ cũng có trí thượng thượng, còn người được xem là thượng thượng cũng không có ý trí, đừng tưởng người ở cấp cao là người hay. Nghe thế quan Biệt giá liền bảo: Ông nói đi, tôi viết cho nhưng phải nhớ là ông được pháp thì độ tôi trước. Thành ra cũng là tham phải không? Khi giúp người cũng đòi quyền lợi trước!
24.Toát yếu: Kẻ hạ hạ cũng có trí thượng thượng, còn người được xem là thượng thượng cũng không có ý trí, đừng tưởng người ở cấp cao là người hay.(Mạt thị vô nhân, sanh tâm ngã mạn. Người đời khinh khi, kiếp này phải chịu.)
Huệ Năng đọc bài kệ:

Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm?
25.HT giảng Bồ-đề chỉ cho Tánh giác, Tánh giác không có hình tướng thì không phải là cây, đây là bác câu “thân là cây bồ-đề”. Ngài Thần Tú nói thân này là cây bồ-đề, Ngài nói trái lại: Bồ-đề là Tánh giác, Tánh giác thì đâu có hình tướng mà nói là cây. Câu thứ nhất bác hình thức cây bồ-đề.

Đến câu thứ hai ngài Thần Tú nói: “tâm như đài gương sáng”, như vậy đài gương sáng là gương sáng hay đài sáng? Nếu nói đài gương sáng thành ra nhấn mạnh chữ đài. Gương là tự nó sáng không cần có đài mới sáng, nếu nói đài gương sáng là đã lầm cái hình thức thứ hai.
Đến hai câu sau “xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi bặm”, tức là chỗ chân thật đó xưa nay không một vật huống nữa là dính bụi bặm? Ngài Thần Tú nói “luôn luôn phải lau chùi, chớ để dính bụi bặm” nhưng xưa nay nó không dính một vật thì chùi cái gì? Đã không có một vật thì có gì dính bụi?
Như thế rõ ràng ngài Huệ Năng thấy được Bản tánh xưa nay không có một hình trạng, không có một tướng mạo, chính Bản tánh đó tự thanh tịnh, không cần lau chùi mới thanh tịnh. Đó là Ngài đã thấy được, còn ngài Thần Tú không thấy được nên suy nghĩ theo lối tu nặng về hình thức: cái gương có bụi dính nay ráng chùi cho hết bụi, đó là chưa thấy được Bản tánh thật vì Tánh giác không tướng mạo, đã không tướng mạo thì có gì nhiễm, có gì dính được nó, thấy rõ được như vậy thì không bao giờ lầm, không phải lau chùi gì cả.
Lau chùi là chỉ hình thức bên ngoài, chớ Tánh giác không có tướng mạo nên nó hằng thanh tịnh, hằng thanh tịnh thì chỗ nào dính bụi mà phải lau chùi? Như vậy qua bài kệ này mọi người thấy rõ là Ngài đã vô cửa, còn bài kệ của ngài Thần Tú chưa vô cửa.
25.Toát yếu: Bài kệ của Ngài Thần Tú là ý nói về sự tánh của người tu tiệm thì phải như vậy. Nếu ai ai cũng học theo "Lý" tánh của Ngài Lục Tổ "Biết nói mà không biết làm" thì hơi mệt rồi. Bởi lời này chỉ hướng đến người đã kiến đạo. (Có nghĩa: Ngài Lục Tổ nói được, mà bạn thì không thể bắt chước được, Bởi vì tâm bạn còn đầy ấp thập kiết sử.)
Khi viết bài kệ rồi, đồ chúng thảy đều kinh hoàng, không ai mà chẳng xuýt xoa, mọi người bảo nhau rằng: “Lạ thay! Không thể do tướng mạo mà đoán người, đã bao lâu nay sai Nhục thân Bồ-tát làm việc!”
26.HT giảng: Thế nên, ai đọc bài kệ này cũng giật mình, cả chúng đều ngạc nhiên, thảy đều kinh hoàng, không ai mà chẳng xuýt xoa. Đồ chúng bảo nhau thật không ngờ, không nên xem tướng mà đoán người, vì chúng ta thường có bệnh xem tướng đoán người, ai ăn mặc tề chỉnh, gương mặt sáng sủa thì cho người đó là thông minh, ai ăn mặc lôi thôi, gương mặt hơi khờ thì cho đó là người quê dốt. Nay chúng mới ngạc nhiên không ngờ mấy tháng nay mình sai vị Nhục thân Bồ-tát làm việc. Như thế là họ hốt hoảng cho Ngài là Bồ-tát. Nhưng trong đoạn tiếp theo, chúng ta sẽ thấy Ngũ Tổ thật là người hiểu tâm lý.
26.Toát yếu: "Nhìn mặt bắt hình vong" Đó là bệnh nghi của đời/đạo.
Tổ thấy cả chúng đều kinh ngạc, sợ có người làm hại, mới lấy giày xóa hết bài kệ, nói: “Cũng chưa thấy tánh.” Chúng cho là đúng.
27.HT giảng: Người học trò thường như thế. Khi mới đọc bài kệ thì thấy hay hơn bài kệ trước. Tự biết như vậy, nhưng khi nghe vị thầy bảo cũng chưa thấy tánh và lấy giày xóa thì cũng nói theo: À, phải rồi cũng chưa thấy tánh và cũng yên tâm như vậy! Thế nên người học đạo khi nghe ai bảo điều gì là phải mà mình thấy rõ chưa phải thì vẫn biết là chưa phải, ai nói điều gì là sai mà mình xét thấy đúng vẫn biết là đúng, như thế mới có lập trường. Còn người ta bảo “phải” mình thưa phải, người ta nói “sai” mình cũng dạ sai, rồi theo đó mà khen mà chê là không có lập trường, đó là cái hại. Nhất là khi đọc sách, người hướng dẫn hoặc người viết sách khen điều gì, ta cũng khen theo, chê điều gì, ta cũng chê theo, mà không biết hay dở ở điểm nào, đó là khuyết điểm lớn của người học.
27.Toát yếu: Xem bài giảng, Thế nên người học đạo khi nghe ai bảo điều gì là phải mà mình thấy rõ chưa phải thì vẫn biết là chưa phải, ai nói điều gì là sai mà mình xét thấy đúng vẫn biết là đúng, như thế mới có lập trường.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Ngũ Tổ truyền pháp Đốn giáo.
Ngày kế, Tổ thầm đến chỗ giã gạo thấy Huệ Năng đeo đá giã gạo, mới bảo rằng: “Người cầu đạo vì pháp quên mình đến thế ư?”
28.HT.giảng: Thật cũng khổ sở! Tổ thấy ngài Huệ Năng đeo đá giã gạo mới bảo: Người cầu đạo vì pháp quên mình đến như thế ư? Tức là nếu cần làm thì cứ làm chẳng nghĩ đến thân, còn chúng ta như thế nào? Vào chùa, khi làm việc gì nặng là than ngay: Ôi, tôi làm không nổi, một mình tôi làm không nổi, phải hai, ba người mới được; còn Ngài nếu một mình không nổi thì đeo thêm một viên đá cho đủ sức nặng, đó là vì đạo quên mình. Trái lại nếu vì mình thì thế nào? Nơi nào dù có đạo mà cực quá thì bỏ đi tìm chỗ sung sướng hơn; thế nên vì mình thì quên đạo, còn vì đạo thì quên mình.
Người cầu được đạo thì dù khổ cực thế mấy cũng chấp nhận, người vì mình thì dù nơi có đạo lý nhưng cực nhọc quá cũng bỏ đi tìm nơi khác sung sướng hơn. Vậy người học đạo phải lấy đây làm gương. Thật ra trong chúng mấy trăm người, nếu mình yếu không đủ sức nặng để giã gạo thì kêu thêm một người nữa, đâu có hại gì, nhưng Ngài không cần, ví dụ phải sáu mươi kí mới cất nổi cái chày mà Ngài chỉ có bốn mươi kí thì Ngài đeo thêm viên đá hai mươi kí nữa là được rồi, không cần gọi thêm người thứ hai. Chính việc làm vì đạo quên mình của Ngài khiến cho người sau mỗi khi đọc đến đều cảm động và chính Ngũ Tổ cũng phải khen: “Vì pháp mà quên mình đến thế ư?”
28. Toát yếu: Ngũ Tổ khen sự kiên nhẫn bền bỉ của Ngài Lục Tổ, ...Do đó tuy rằng Ngài đã kiến đạo (thấy đạo) nhưng thành Tổ thì phải trải qua việc tu hành bao nhiêu thời gian nửa ?
Tổ lại hỏi: “Gạo trắng hay chưa?” Huệ Năng thưa: “Gạo trắng đã lâu, còn thiếu giần sàng.” Tổ lấy gậy gõ vào cối ba tiếng rồi đi. Huệ Năng liền hội được ý Tổ, đến khi trống đổ canh ba liền lén vào thất. Tổ lấy cà-sa che chung quanh không để người thấy, vì nói kinh Kim Cang, đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Huệ Năng ngay lời đó đại ngộ, thấy tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự tánh, liền thưa Tổ rằng:

Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh, Đâu ngờ Tự tánh vốn không sanh diệt, Đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ, Đâu ngờ Tự tánh vốn không dao động, Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp!

Ngũ Tổ biết Huệ Năng đã ngộ được Bản tánh mới bảo: “Chẳng biết Bản tâm, học pháp vô ích, nếu biết được Bản tâm mình, thấy được Bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của trời người, là Phật.” Canh ba thọ pháp, người trọn không biết, Tổ liền truyền pháp đốn giáo và y bát, nói rằng: “Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu, khéo tự hộ niệm, rộng độ chúng hữu tình, truyền khắp đời sau, không khiến cho đoạn tuyệt. Nghe ta nói kệ:

Hữu tình lai hạ chủng,
Nhân địa quả hoàn sanh.
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh.
29. HT giảng: Chữ tình không có nghĩa thức tình, chữ tình đây chỉ cho những người đã có được hạt giống tức là có cái chủng tánh về đạo lý. Người có tình đến nên gieo giống cho họ, nhân nơi đất mà quả lại sanh, tức là người đã có chủng tánh về đạo lý này, khi họ đến nên gieo giống cho họ, nhân nơi đất Tự tánh của họ sẵn có sẽ sanh ra quả.

Còn vô tình tức là người không có hạt giống đó, không có giống thì không có tánh, cũng không có sanh. Người không có chủng tử đó mình có gieo cũng khó mà được, nên nói không tánh cũng không sanh. Đây là bài kệ truyền pháp.

Tôi lặp lại đoạn này cho quí vị thấy chỗ cần yếu khi ngài Huệ Năng ngộ. Chúng ta thấy khi nghe đọc một câu kinh Kim Cang Ngài đã ngộ rồi, tại sao tới đây Ngài lại ngộ nữa? Như thế lần ngộ trước và lần ngộ sau khác nhau ở điểm nào? Thường chúng ta không hiểu kỹ nên thắc mắc, khi trước Ngài cũng ngộ nên Ngài mới thưa chuyện với Ngũ Tổ, Ngài mới làm bài kệ và được Ngũ Tổ chấp nhận là vào cửa, đến đây Ngài lại ngộ nữa là ngộ cái gì?

Cái ngộ trước là Ngài mới thấy “Bản lai vô nhất vật”, nghĩa là thấy Thể tánh đó không có một hình tướng, không có một vật tượng, chỉ là một Thể tánh rỗng lặng, vì thấy được chỗ đó nên vào cửa.

Đến chỗ này Ngài thấy thế nào? Ngài nói: đâu ngờ tâm mình thanh tịnh, đâu ngờ tâm mình chẳng sanh diệt, nó tự đầy đủ, nó không dao động, nó hay sanh muôn pháp, như thế đến đây Ngài mới thấy Thật thể của Bản tâm.

Khi trước Ngài chỉ mới thấy chỗ không có vọng, đó là Tánh không, bởi thấy được Tánh không nên mới được vào cửa. Vào cửa chưa phải là xong việc, phải thấy được cái đầy đủ, thanh tịnh, chưa từng sanh diệt, không dao động và hay sanh muôn pháp, thấy tột cái đó mới gọi là thấy được Bản tánh mình.

Như vậy qua đoạn này chúng ta mới thấy rõ người học đạo không phải ngộ một lần là xong. Trong nhà thiền thường nói rằng đại ngộ ít ra cũng ba bốn lần, còn tiểu ngộ thì vô số.

Tiểu ngộ là sao? Tỉ dụ nghe một thời giảng, chúng ta có lóe sáng một điều gì mình thích, thấy điều đó từ trước đến nay chưa từng biết, nay mình biết, đó là tiểu ngộ. Còn đại ngộ là một lần nhận ra được thì vui cả năm bảy ngày, nghĩa là điều đó là một việc lớn mà từ trước đến nay chưa bao giờ mình phát minh được, nay phát minh được, đó là đại ngộ.

Nhưng một lần cũng chưa xong, phải đôi ba lần như thế, thế nên người học đạo phải có ngộ chớ không ngộ thì khó vào đạo. Ngài Thần Tú hiểu lý kinh mà chưa ngộ đạo nên vào cửa không nổi.

Đến trường hợp Tổ muốn truyền y pháp cho ngài Huệ Năng. Trước hết là pháp, muốn truyền pháp, đầu tiên Tổ đem kinh Kim Cang giảng cho Ngài nghe, nhưng khi giảng kinh, tại sao lại lấy y che hết các cửa sổ không cho ai thấy cả? Có phải tại vì truyền pháp thì phải bí mật không? Vì hoàn cảnh của Tổ là khác.

Tổ biết rằng nếu có người nào hay Tổ truyền cho ngài Huệ Năng họ sẽ chống đối, bởi vì lúc ấy ngài Huệ Năng chưa cạo tóc, Ngài chỉ giã gạo tám tháng rồi Tổ gọi lên truyền y bát. Thế nên Tổ phải che kín hết không cho ai thấy, chỉ một thầy một trò, Tổ giảng kinh Ngài nghe rồi ngộ. Tổ lén truyền pháp xong rồi đưa ra cửa sau đi luôn không dám cho ở. Còn chúng ta hiện nay, khi truyền pháp có cần che kín như thế không? Tỉ dụ tôi có đạo lý gì muốn truyền cho Phước Hảo hay những chú lớn trong đây, tôi có cần che kín không? Vì trường hợp của Tổ là trường hợp đặc biệt phải giấu.

Còn trường hợp thông thường, thầy nói đệ tử nghe, nhận hiểu tức là được đạo. Nay có một số người bắt chước cho đây là mật truyền, gọi vào phòng che kín lại rồi truyền và nói là y theo Tổ thuở xưa. Thật đúng với câu “ôm cây đợi thỏ” hay “khắc mạn thuyền mò gươm”, thật là khờ dại! Hoàn cảnh của người xưa khác, nay lại bắt chước cái mật đó!

Phật pháp không phải mật vì có những trường hợp quá đặc biệt nên mới mật thôi.

Như thế quí vị phải hiểu rõ tinh thần truyền pháp, không phải là chỉ truyền khi nào có một thầy một trò trong trường hợp đóng cửa, đó là cái họa, không phải đúng. Tổ khi xưa làm như thế, vì đặc biệt ngài Huệ Năng là người chưa được mọi người tin tưởng, nếu Tổ để cho họ biết là có hại nên phải dùng phương tiện đó.

Khi truyền pháp Tổ dùng kinh Kim Cang. Thế nên tôi thường nói với quí vị, đầu tiên chúng ta học kinh Kim Cang để nhân kinh mà nhận được Bản tánh. Những câu sau đây quí vị thấy Ngũ Tổ nói thật là gần.

Ngài bảo rằng: người học đạo không biết được Bản tâm thì học đạo vô ích, học đạo mà không nhận được Bản tâm thì học cái gì?

Học đạo là cốt ngộ được Bản tâm mà không ngộ được tức nhiên là học bên ngoài chớ chưa phải là học đạo. Còn nếu biết được Bản tâm, thấy được Bản tánh, đó là Trượng phu, là Thầy của trời người, là Phật, tức là đủ mười hiệu. Như thế người muốn thành Phật phải y thế mà tu. Sau khi dặn dò, Lục Tổ nhận pháp rồi, Ngũ Tổ truyền y bát, bảo ráng gìn giữ.

Tổ lại dặn trong một bài kệ: Nếu người có chủng tử đạo lý đến thì phải ráng vì họ mà gieo giống tức là làm phương tiện để cho họ khai ngộ, chính nơi đất tâm của họ có sẵn thì mình gieo hạt giống, quả từ đó phát triển sanh khởi không khó; còn người chưa có chủng tử đó thì không gieo giống được, đã không có chủng tử, có gieo giống cũng không sanh khởi vì thế mới nói rằng “vô tánh diệc vô sanh”.
29. Toát yếu: “Bản lai vô nhất vật” xem lại bài giảng, Ngũ Tổ nói: “Chẳng biết Bản tâm, học pháp vô ích, nếu biết được Bản tâm mình, thấy được Bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của trời người, là Phật.”


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Truyền Y Bát cho Lục Tổ xong, liền không cho ở hội chúng vì sợ người hại.
Tổ lại bảo: “Xưa Đại sư Đạt-ma ban đầu đến cõi này, người chưa tin nên mới truyền y này để làm tín thể, đời đời truyền nhau, pháp thì dùng tâm truyền tâm, đều khiến cho tự ngộ tự giải. Từ xưa Phật Phật chỉ truyền Bản thể, thầy thầy thầm trao Bản tâm, y là đầu mối của sự tranh giành, nên dừng ngay nơi ngươi, chớ truyền nữa. Nếu truyền y này thì mạng của người nhận y cũng như sợi chỉ mành.”
30.HT giảng: Phật cũng truyền cho mình cái Bản thể, chư Sư cũng truyền cho mình cái Bản tâm, đó là điều chánh yếu. Tại sao khi xưa Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa truyền y bát, đến đời Lục Tổ, Ngũ Tổ lại cấm truyền y? Vì ngay đời Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Ngài chỉ mới có vài đệ tử thôi nên người nào xuất sắc hơn thì được Ngài truyền y để làm bằng chứng cho người sau tin.

Đến đời Ngũ Tổ số đệ tử lên đến năm bảy trăm người, đến Lục Tổ số chúng đông đến cả ngàn người, nay truyền y cho một người, bao nhiêu người khác ganh tị, tranh giành là cái họa cho người đó. Thế nên về sau, người nào được pháp rồi, Tổ bảo họ đến một nơi nào đó truyền bá chớ không giao y cho vì giao y là giao họa cho họ. Chúng ta đã thấy rõ lý do, chớ thường chúng ta hay cố chấp nói, khi xưa Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền pháp rồi truyền y bát cho Tổ Huệ Khả, Tổ Tổ truyền nhau tới sáu đời, sau này không truyền nữa tức là đến đó không còn Tổ nữa, tức là hết người ngộ rồi, đó là lầm lẫn lớn. Tỉ dụ như ở đây, trong chúng có cả trăm người nghe chúng tôi giảng dạy, giả sử có một người trả lời đúng câu tôi hỏi, tôi nói: người này xứng đáng kế thừa cho tôi, khi nghe như thế quí vị tin người đó chưa? Dĩ nhiên là tin rồi, đâu cần truyền cái gì nữa.

Thế nên, trong các hội chúng sau này, hội nào cũng từ năm trăm đến một ngàn người, nếu có người nào ngộ đạo, Tổ chỉ nói tỉ dụ như “trái mai đã chín” là thiên hạ hiểu rồi, đua nhau tìm tới học chớ không phải truyền y gì cả. Hoàn cảnh thuở xưa khác, người sau không hiểu cứ cố chấp, nói tại sao sau này không có truyền y bát. Mà truyền y bát để làm gì? Điều quan trọng là mình phải ngộ đạo, cho nên nói Phật Phật truyền nhau Tâm thể đó, Tổ Tổ truyền nhau Bản tâm này, vậy phải hiểu y bát chỉ để làm biểu tín bên ngoài khi chưa có người biết, còn khi mọi người đều biết thì nó không cần thiết nữa. Ngũ Tổ bảo tiếp:
30.Toát yếu: Nguyên nhân Ngũ Tổ căn dặn Lục Tổ đời sau không truyền Y bát, Là nguyên do có thể xẩy ra việc tranh chấp của hội chúng.
“Ông phải đi nhanh, e người hại ông.” Huệ Năng thưa: “Bây giờ con phải đi đâu?” Tổ bảo: “Gặp ấp Hoài thì dừng, gặp ấp Hội thì ẩn.” Huệ Năng canh ba lãnh được y bát, thưa: “Huệ Năng vốn là người miền Nam không biết đường đi, làm sao ra được bến đò?”

Ngũ Tổ bảo: “Ông chẳng phải lo, ta tự đưa ông đi.” Tổ liền đưa đến bến đò Cửu Giang, Tổ bảo lên thuyền, Ngũ Tổ bèn cầm chèo tự chèo. Huệ Năng thưa: “Thỉnh Hòa thượng ngồi, để đệ tử chèo.”

Tổ bảo: “Phải là ta độ ông.” Huệ Năng thưa: “Khi mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ. Độ tên tuy là một nhưng chỗ dùng không đồng. Huệ Năng sanh nơi biên phương, tiếng nói không đúng, nhờ Thầy truyền pháp nay đã được ngộ, chỉ nên Tự tánh tự độ.” Tổ bảo: “Như thế! Như thế! Về sau Phật pháp do ông mà được thạnh hành, ông đi ba năm, ta sẽ thệ thế. Nay ông đi an vui, nỗ lực hướng về Nam, không nên nói pháp sớm, Phật pháp sẽ gặp tai nạn.” Huệ Năng từ giã Ngũ Tổ rồi cất bước đi về phương Nam, trong khoảng hai tháng đến ngọn núi Đại Dữu.
31.HT giảng: Lục Tổ ở trong hoàn cảnh bị người khinh, nhưng Ngũ Tổ nhìn Ngài ở chỗ tâm sáng, vì tâm sáng nên xứng đáng được truyền pháp, còn cái hình thức, sự dốt nát v.v... là những điều bị thiên hạ khinh, người bị khinh mà được truyền pháp làm Tổ thì thiên hạ tức, do đó có thể bị hại. Thế nên giữa đêm Ngũ Tổ phải cực khổ lén đưa ngài Huệ Năng đi, có thể hai thầy trò cầm đèn đưa nhau ra bến đò, rồi qua bên kia sông lên bờ.
Ngũ Tổ lại dặn dò: “Ngươi đi rồi, ba năm sau ta sẽ tịch, vậy ngươi đi bình yên, ráng đi về phía Nam, đừng có dạy sớm.” Thật là chí tình!
31.Toát yếu: Sau khi truyền ý bát cho Lục Tổ, Ngũ Tổ còn đưa tiển đến bến đò Cửu Giang. (Hết bài giảng 2)


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Tổ Huệ Năng giảng Pháp đầu tiên cho Huệ Minh!
Ngũ Tổ trở về, mấy ngày không thượng đường, chúng nghi mới đến hỏi: “Hòa thượng có ít bệnh, ít não chăng?” Ngài đáp: “Bệnh thì không, mà y pháp đã về Nam rồi.” Chúng hỏi: “Ai là người được truyền?” Tổ bảo: “Người có khả năng thì được.” Chúng liền biết.
HT: Vì họ đã được đọc bài kệ của ngài Huệ Năng nên khi nghe Ngũ Tổ nói họ liền biết là Ngài. Biết rồi họ có tha không?
Khi đó vài trăm người đuổi theo, muốn cướp y bát, một vị Tăng họ Trần, tên Huệ Minh, trước là tướng quân bậc Tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, hết lòng theo tìm, chạy trước mọi người, đuổi kịp Huệ Năng. Huệ Năng để y bát trên bàn thạch nói: “Y này là biểu tín có thể dùng sức mà tranh sao!” Huệ Năng liền ẩn trong lùm cỏ, Huệ Minh đến cầm y lên mà không nhúc nhích, mới kêu rằng: “Cư sĩ, cư sĩ! Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì y.” Huệ Năng bèn bước ra ngồi trên bàn thạch. Huệ Minh liền làm lễ thưa: “Mong cư sĩ vì tôi nói pháp.” Huệ Năng bảo: “Ông đã vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các duyên, chớ sanh một niệm, tôi vì ông nói.” Huệ Minh im lặng giây lâu. Huệ Năng bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Huệ Minh ngay câu nói đó liền đại ngộ.
32.HT giảng: Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Lục Tổ. Ngài thuyết pháp quá đơn giản. Ngài bảo: Ông dừng tất cả vọng tưởng, đừng nghĩ gì cả. Huệ Minh đứng lặng yên giây lâu thì Lục Tổ bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Huệ Minh liền ngộ. Như thế chỉ một câu nói, Huệ Minh ngộ được Bản lai diện mục của mình.
32. Toát yếu: Đây là bài pháp đầu tiên dạy cho Thượng Tọa Minh (Huệ minh).
Lại hỏi: “Ngoài mật ngữ, mật ý trên, còn có mật ý khác chăng?” Huệ Năng bảo: “Vì ông nói tức không phải mật vậy, ông nếu phản chiếu thì mật ở bên ông.”
33.HT giảng: Ông đừng hỏi nữa, đã vì ông mà nói rồi thì đâu còn mật. Cái mật là cái ông biết phản chiếu trở lại đó. Chúng ta thường có bệnh nghe nói chứng được Phật quả thì có Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng v.v... ai nấy đều thích, nhưng nay nghe nói Bản tâm mình thanh tịnh, hằng tri thì thắc mắc: Thế là không còn gì lạ nữa sao? Nếu chỉ được cái thanh tịnh hằng tri đó thì có vẻ thường quá, không có điều gì mật, điều gì quan trọng cả! Nhưng thật ra chính cái thanh tịnh hằng tri đó nếu mình sống được, lâu sau tự nhiên có cái mật.

Đừng hỏi thêm, không ai chỉ thêm được điều gì nữa, cái đó là ở nơi mình chớ không phải ở nơi người chỉ. Người chỉ giúp cho mình nhận ra được cái đó, rồi mình sống với nó, lâu ngày bao nhiêu diệu dụng theo đó mà có, chớ không phải người khác làm cho mình được. Như vậy là Ngài chỉ rõ mật là tại ông, tức là ông biết phản chiếu, cái mật ở nơi ông.
33. Toát yếu: Xem lại bài giảng. Phật pháp của nói mật ý hay là hiển ý ?
Huệ Minh thưa: “Huệ Minh tuy ở Huỳnh Mai, thật chưa có tỉnh diện mục của chính mình, nay nhờ chỉ dạy như người uống nước lạnh nóng tự biết. Nay cư sĩ tức là Thầy của Huệ Minh.” Huệ Năng bảo: “Ông nếu như thế thì tôi cùng ông đồng thờ thầy Huỳnh Mai, khéo tự hộ trì.”
34.HT giảng: Câu: “nay nhờ chỉ dạy như người uống nước lạnh nóng tự biết” là câu trình kiến giải. Như thế Huệ Minh cũng can đảm, là người xuất gia mà dám nhận một cư sĩ làm thầy.
34.Toát yếu: Tại sao! Huệ Minh tôn Huệ Năng làm thầy, trong khi đó thì Tổ Huệ Năng nói "Tôi cùng ông đồng thờ thầy Huỳnh Mai. (Hơi khó hiểu).
Huệ Minh lại thưa: “Huệ Minh từ nay về sau nhằm chỗ nào đi?” Huệ Năng bảo: “Gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.” Huệ Minh liền lễ từ.
35.HT giảng: Đây là điểm tôi nghi, vì trước đó Ngài chưa biết phải đi đâu, nên hỏi Ngũ Tổ “con phải đi đâu” thì Ngũ Tổ bảo “phùng Hoài... ngộ Hội v.v...”, nay thình lình Huệ Minh vừa ngộ hỏi con đi đâu thì Ngài cũng dặn bảo được, thành ra mau quá, nên tôi nghi.

Trong đoạn trước tôi có nói, người sau ghi lại muốn cho có vẻ huyền bí một chút, nên điểm tô thêm một ít nét, nếu chúng ta kiểm điểm lại thì thấy rõ. Nếu trước Ngài đã biết tức Ngài không hỏi Ngũ Tổ, vì Ngài chưa biết thân phận mình, nên phải nhờ Ngũ Tổ định đoạt, trong lúc chạy trốn Ngài đâu có ngày giờ ngồi tu mà nói tâm Ngài được sáng, biết quá khứ vị lai? Đến khi Huệ Minh ngộ hỏi, Ngài liền biết chỗ nào nên ở, chỗ nào nên đi, đó là Ngài biết quá khứ vị lai rồi. Điều này e là người sau bổ túc, đó là điểm tôi nghi, vì khi nghiên cứu, chúng ta phải thấy điểm nào là thật, điểm nào là không thật, chớ không thể đọc sao nghe vậy.
35.Toát yếu: Xem lại cái nghi của HT. giảng là có căn cứ. Nhiều dịch giả biên chép sửa hoặc thêm bởt.
Huệ Minh trở về, xuống núi bảo những người đuổi theo: “Đi trên những đồi núi này trọn không tìm ra tung tích, phải đi qua đường khác tìm.” Cả chúng đuổi theo đều cho là đúng. Huệ Minh về sau đổi tên là Đạo Minh, đó là tránh chữ đầu của tên Thầy.
36.HT giảng: Huệ Minh nói gạt chúng là đi theo mấy ngọn đồi núi chập chùng này không tìm ra dấu vết gì cả, thôi tìm đường khác đi, đó là gạt chúng đừng đuổi theo.
36.Toát yếu: Huệ Minh sau này đổi tên là Đạo Minh.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »



Lục Tổ gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn
Huệ Năng sau đến Tào Khê lại bị bọn người ác tìm đuổi, mới ở nơi Tứ Hội(1), tị nạn trong đám thợ săn, trải qua mười lăm năm, khi đó cùng những người thợ săn tùy nghi nói pháp. Những người thợ săn thường bảo giữ giềng lưới, khi Huệ Năng thấy những con vật mắc lưới đều thả. Mỗi khi đến bữa ăn, hái rau gởi luộc trong nồi thịt, hoặc có người hỏi thì đáp: “Chỉ ăn rau ở bên thịt.”
37.HT giảng: Tu theo Ngài cũng hơi dễ, rau luộc trong nồi thịt cũng dễ ăn hơn rau luộc bằng nước trong. Như thế quí vị thích tu theo cách này không? Mình ăn rau gởi luộc trong nồi thịt thôi, không ăn thịt! Nói thế thì có nhiều vị bắt chước, về nhà vợ con nấu thịt cũng bỏ rau vào luộc, đến khi ăn thì ăn rau thôi! Nhưng chúng ta không nên bắt chước như vậy.

Chúng ta phải hiểu hoàn cảnh của Ngài, Ngài còn hình thức cư sĩ và Ngài cũng giấu không cho người ta biết tung tích của Ngài, nếu Ngài tỏ ra là người tu, sợ người ta biết tung tích thì có hại, nên Ngài giấu hẳn. Ngài sống như bao nhiêu người tầm thường khác, Ngài cũng làm việc với thợ săn để mọi người không nghi ngờ, thế nên Ngài không có quyền luộc một nồi rau riêng sợ người ta nghi, còn chúng ta hiện nay có quyền luộc rau riêng thì cứ luộc, tại sao muốn gởi trong nồi thịt? Đó là có ý xấu rồi! Phải hiểu hoàn cảnh mỗi bên khác nhau, đừng nghe rồi bắt chước, nói khi xưa Lục Tổ cũng luộc rau trong nồi thịt thì nay tôi cũng ăn rau bên cạnh thịt có hại chi đâu? Phải hiểu hoàn cảnh của Ngài khác, hoàn cảnh của mình khác, mình có quyền luộc rau riêng được thì cứ luộc riêng, chớ cứ gởi theo kiểu đó mãi chắc là khó coi lắm! Hiểu như thế mới thấy ý nghĩa của mỗi phần, chớ nhiều khi chúng ta hay bắt chước người xưa một cách lố bịch, không đúng.
Như thế là Ngài chạy từ nơi Ngũ Tổ đến đây gần một năm và ở trong đám thợ săn mười lăm năm nữa tức là mười sáu năm trời vất vả!
Một hôm, mới suy nghĩ: Thời hoằng pháp đã đến, không nên trọn trốn lánh. Huệ Năng liền đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Khi ấy có gió thổi, lá phướn động, một vị Tăng nói gió động, một vị Tăng nói phướn động, hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động.” Cả chúng đều ngạc nhiên. Ấn Tông mời Huệ Năng đến chiếu trên gạn hỏi áo nghĩa(2), thấy Huệ Năng đối đáp, lời nói giản dị mà nghĩa lý rất đúng, không theo văn tự. Ấn Tông nói: “Cư sĩ quyết định không phải là người thường, đã lâu nghe y pháp của Huỳnh Mai đi về phương Nam, đâu chẳng phải là cư sĩ?” Huệ Năng nói: “Chẳng dám!”
38. HT giảng: “Chẳng dám” là lời nói khiêm nhường chấp nhận.

Đến đây tôi nói chuyện phong phan một chút. Quí vị thấy Ngài xuất đầu lộ diện qua câu chuyện gió động, phướn động. Giả sử như vào ngày rằm tháng tư, chúng ta treo lá cờ Phật giáo ở trước cửa, gió thổi lá cờ bay phất phới, có hai vị Sư cãi nhau, một người nói gió động, một người nói cờ động, có một người khác lại nói: đó là tâm hai ông động. Nghe như thế, chúng ta có thấy quan trọng không? Cũng thường thôi. Nhưng tại sao khi Ngài nói câu đó cả chúng đều ngạc nhiên? Tại sao?

Thật ra vì hiện nay chúng ta thường được nghe câu chuyện đó, chúng ta đã quen rồi nên không ngạc nhiên. Nếu từ trước đến nay chưa từng nghe, mà thấy một cư sĩ nói một câu như vậy, tức nhiên mọi người đều lấy làm lạ, nếu một người xuất gia nói câu đó thì khả dĩ người ta không ngạc nhiên lắm, nay một cư sĩ mà nói một câu như thế thì mọi người đều biết cư sĩ này hẳn có một cái gì đặc biệt nên mới ngạc nhiên.

Nay tôi hỏi quí vị: gió động, phướn động, câu nào đúng? Nếu có phướn mà không có gió thì phướn động được không? Trái lại có gió nhưng không có phướn thì có thấy động không? Cũng không thấy! Như thế chúng ta thấy phướn động là nhân có gió và có phướn. Tướng duyên hợp không phải là một, mà có duyên hợp mới có động, nếu không có duyên hợp thì không có động, vì thế trên tướng duyên hợp mà chúng ta chấp một bên, đó là nhìn phiến diện, mà nhìn phiến diện thì không đúng được lý cứu kính.

Bởi vì mỗi bên nhìn một khía cạnh nên ai cũng thấy mình đúng cả, mà đã đúng rồi thì cãi nhau mãi cũng không ra lẽ. Thế nên, tất cả pháp trên thế gian này là tùy duyên, vì tùy duyên nên có động tác, có hình tướng v.v... Động tác, hình tướng đều là tướng của duyên, đã là của duyên thì không nên chấp vào một bên. Chấp vào một bên, nhìn phiến diện là gốc của sự tranh cãi.

Trái lại nếu biết các pháp duyên khởi thì không có gì phải tranh luận, sở dĩ có tranh luận là do không nhận được lý đó. Thí dụ có người hỏi: cái bàn do cái gì làm ra, một người bảo: do gỗ làm ra, người thứ hai bảo: do ông thợ mộc làm ra, vậy ai đúng? Nếu không có gỗ, ông thợ mộc làm được cái bàn không? Còn nếu không có ông thợ mộc, gỗ có thành cái bàn không? Dĩ nhiên thiếu một trong hai điều kiện trên là không được, đó là chưa kể bao nhiêu vật nhỏ nhặt khác như đinh, bào, đục v.v... Vì vậy, chúng ta không thể nhìn phiến diện được, nếu chấp một bên là có tranh cãi, tranh cãi mãi không phân hơn thua, kết quả là đi đến nổi giận rồi đánh nhau.

Thế gian thường xảy ra những cuộc đánh nhau, vì mỗi người đều có lý riêng của mình, lúc mới cãi còn nóng ít, dần dần ai cũng đỏ mặt rồi đánh nhau, nhưng kết quả không đi đến đâu cả. Chính đó là sự lầm lẫn của chúng sanh. Do đó chúng ta biết được lý duyên khởi, các pháp duyên khởi thì ở thế gian này không có gì phải tranh luận với nhau. Anh nhìn các pháp như thế này là do anh thấy khía cạnh này của chúng, người kia nhìn các pháp như thế kia là do người đó thấy khía cạnh khác của các pháp. Không ai đúng toàn diện cả. Nhìn toàn diện thì các pháp không cố định, tự tánh là không, duyên khởi là lý thật của các pháp. Thế nên chúng ta thấy rõ, trong câu chuyện phong phan này, do chấp một bên mà có sự tranh cãi.

Để chấm dứt cuộc tranh cãi, Lục Tổ bảo: Tâm nhân giả động! Tại sao Tổ bảo tâm các ông động? Chấp một bên, dấy niệm chấp là tâm động. Chấp là tâm chấp, nên nói tâm hai ông động, đó là nói chỗ rốt ráo, Ngài chỉ thẳng gốc của sự tranh cãi là tâm chấp. Dấy niệm chấp là tranh cãi, động là từ cái chấp đó. Dấy niệm chấp là động, vì thế cả chúng nghe rồi đều hoảng hốt, không ngờ một cư sĩ lại nói được một câu như vậy. Thế là Ngài xuất đầu lộ diện qua câu chuyện “phong phan”. Đó là những hình ảnh đẹp, những câu chuyện lý thú trong nhà Thiền. Đến khi ngài Ấn Tông mời Ngài giảng đạo thì Ngài nói lời giản dị nhưng ý rất thâm sâu, nên ngài Ấn Tông mới bảo: Nghe y pháp của Ngũ Tổ đã về phương Nam, vậy chắc là Ngài chớ không phải ai khác. Ngài đáp “không dám”, đó là một cách chấp nhận.
38.Toát yếu: Chuyện Phong phan: Sự kiến thủ về một phiến diện
Ấn Tông liền làm lễ, xin đưa y bát đã được truyền cho đại chúng xem. Ấn Tông lại thưa: “Huỳnh Mai phó chúc, việc chỉ dạy như thế nào?” Huệ Năng bảo: “Chỉ dạy tức không, chỉ luận về kiến tánh, chẳng luận thiền định giải thoát.”
39. HT giảng: Ngài Ấn Tông là một Pháp sư, trong khi Lục Tổ còn hình thức cư sĩ, nhưng vừa nghe như thế Ngài liền làm lễ. Sau đó Ngài xin Tổ đưa y bát đã được truyền cho đại chúng xem. Ngài Ấn Tông hỏi “Tổ Huỳnh Mai chủ yếu chỉ dạy như thế nào” thì Tổ Huệ Năng bảo: chỉ dạy thì không, chỉ luận về kiến tánh, không luận về thiền định giải thoát gì cả.
Ấn Tông thưa: “Sao chẳng luận thiền định giải thoát?” Huệ Năng bảo: “Vì ấy là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp chẳng hai.”
Ấn Tông lại hỏi: “Thế nào Phật pháp là pháp chẳng hai?”
Huệ Năng bảo: “Pháp sư giảng kinh Niết-bàn, rõ được Phật tánh, ấy là Phật pháp là pháp chẳng hai. Như Bồ-tát Cao Quí Đức Vương bạch Phật: Phạm tứ trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch và nhất xiển-đề v.v... sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?

Phật bảo: Thiện căn có hai, một là thường, hai là vô thường, Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, gọi là chẳng hai; một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, ấy là chẳng hai; uẩn cùng với giới, phàm phu thấy hai, người trí rõ thấu tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh.” Ấn Tông nghe nói hoan hỉ chấp tay thưa: “Tôi giảng kinh ví như ngói gạch, nhân giả luận nghĩa ví như vàng ròng.” Khi ấy vì Huệ Năng cạo tóc, nguyện thờ làm thầy.

Huệ Năng bèn ở dưới cây bồ-đề khai pháp môn Đông Sơn. Huệ Năng được pháp ở Đông Sơn, chịu tất cả những điều cay đắng, mạng giống như sợi chỉ mành. Ngày nay được cùng với Sử quân, quan liêu, Tăng Ni, đạo tục đồng ở trong hội này đâu không phải là duyên của nhiều kiếp, cũng là ở trong đời quá khứ cúng dường chư Phật, đồng gieo trồng căn lành mới nghe cái nhân được pháp môn đốn giáo này. Giáo ấy là các vị Thánh trước đã truyền, không phải tự trí Huệ Năng được, mong những người nghe các vị Thánh trước dạy, mỗi người khiến cho tâm được thanh tịnh, nghe rồi mỗi người tự trừ nghi, như những vị Thánh đời trước không khác.
Cả chúng nghe pháp đều hoan hỉ làm lễ rồi lui.

40.HT giảng: Đến đoạn này Lục Tổ mới nói pháp không hai cho ngài Ấn Tông nghe. Pháp nào còn hai thì đó không phải là Phật pháp. Tổ bảo rằng: Thiền định giải thoát là pháp hai. Nếu là pháp hai tức chưa phải là pháp cứu kính, thế nên nói Phật pháp là pháp không hai.

Tại sao là pháp không hai? Ngài mới dẫn kinh Niết-bàn làm bằng chứng. Đoạn dẫn kinh Niết-bàn có nhiều người nghi, Tổ không có đọc kinh Niết-bàn thì làm sao biết mà dẫn. Nhưng trong một đoạn khác dẫn: Có một lần Ngài ở trong các làng Hoài, Hội gặp một vị Ni đem quyển kinh Niết-bàn đến hỏi, Ngài có giải thích, vì thế nên Ngài nhớ, mới dẫn ra làm bằng chứng rõ ràng về pháp môn bất nhị của Phật.

Đó là pháp môn không hai, pháp môn không hai mới là pháp cứu kính, còn nếu thấy có hai tức chưa phải là cứu kính. Do đó ngài Ấn Tông mới chấp nhận Ngài giảng kinh giống như ngói gạch còn Tổ luận nghĩa như vàng ròng. Khi ấy ngài Ấn Tông mới cạo tóc cho Tổ Huệ Năng và thờ Tổ làm thầy.

Thế là Tổ nói xong lý do đắc pháp cho tất cả chúng nghe, ai nấy đều hoan hỉ. Nhưng Tổ nói một cách dè dặt: Pháp môn đốn giáo này là các vị Thánh trước truyền, chớ không phải do trí của Huệ Năng tự được, vì thế nghe giáo lý của các vị Thánh trước thì mỗi người ráng tịnh tâm nghe rồi trừ nghi và đúng qui cách các vị Thánh đời trước mà tu hành đừng cho sai khác. Cả chúng nghe rồi, ai nấy đều hoan hỉ vâng làm.

Vậy quí vị có hoan hỉ không? Nhớ noi gương Tổ nhé! Dù cực nhọc cũng nhớ rằng sự cực khổ của mình chỉ có một chút không đáng gì cả, xưa cần phải đeo đá để giã gạo Tổ vẫn làm kia mà. Giã gạo đã là cực rồi mà còn đeo thêm đá nữa thì cực biết bao, vậy mà Tổ vẫn làm, huống là chúng ta ngày nay nhổ cỏ, lặt rau, xách nước là chuyện thường có gì đến nỗi làm không được. Hiểu như thế rồi, mới thấy học đạo quí ở nhiệt tình. Hết tâm vì đạo thì được đạo, trái lại nếu sợ đau, sợ mệt, sợ chết v.v... thì hết việc đạo, chính những cái sợ đó làm chướng đạo vậy! (Hết bài giảng 3)


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phẩm Bát-nhã

Trong bộ Pháp Bảo Đàn, phẩm Bát-nhã là phẩm rất quan trọng, tất cả chúng ta học, nếu thâm nhập được phẩm này, mới thấy rõ chủ trương, đường lối tu của Lục Tổ, nên ở đây quí vị nghe hiểu cho kỹ. Tại sao chúng tôi dám nói như thế? Vì Lục Tổ ngộ từ kinh Kim Cang, mà kinh Kim Cang tức là Bát-nhã; cái chủ yếu mà Ngài ngộ được, Ngài diễn đạt lại cho chúng ta biết khiến chúng ta thấy được tầm quan trọng của nó thì sự tu hành mới khỏi lầm lẫn.
Ngày khác, Vi sử quân thưa thỉnh, Tổ đăng tòa bảo đại chúng: “Tất cả nên tịnh tâm niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.” Lại bảo:

Này Thiện tri thức, trí Bát-nhã Bồ-đề, người đời vốn tự có, chỉ nhân vì tâm mê không thể tự ngộ, phải nhờ đến Đại thiện tri thức chỉ đường mới thấy được tánh. Phải biết người ngu, người trí Phật tánh vốn không có khác, chỉ duyên mê ngộ không đồng nên có ngu có trí.
41.HT. giảng: Mở đầu Lục Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng, tất cả chúng ta ai cũng sẵn có Đại trí tuệ Bát-nhã. Sở dĩ người quên nó, mê tức là quên, do tâm quên không nhận được nên gọi đó là ngu; trái lại người tỉnh giác được Trí tuệ Bát-nhã thì gọi là trí.

Vì tất cả chúng ta mê nên phải nhờ Thiện tri thức chỉ dạy, nếu chúng ta nhân lời chỉ dạy của Thiện tri thức, nhận ra được Bản tánh mình tức là từ ngu chuyển thành trí hay là từ mê đổi thành ngộ. Như vậy mê hay ngộ chỉ là do chúng ta biết sống với trí Bát-nhã hay là bỏ quên nó thôi, chớ không phải có người ngộ khác với người mê.
Vì ai cũng sẵn có, nhưng người biết sống trở lại thì gọi là ngộ, người quên đi thì gọi là mê, mê ngộ không đồng, lỗi tại quên và nhớ, chớ không có gì lạ cả. Như vậy từ Trí tuệ Bát-nhã, chúng ta suy ra đến Phật cũng thế. Do chúng ta mê Tánh giác nên gọi là chúng sanh, đức Phật ngộ được Tánh giác nên gọi là Phật, thế nên làm chúng sanh hay làm Phật chẳng qua tại mê với ngộ thôi. Cũng thế, chúng ta thành trí, thành ngu cũng do nhớ, biết trở về với tánh Bát-nhã hay không biết đó thôi.
Vì thế người học đạo không cần tìm những gì xa xôi, chỉ cần phải khai thác chỗ sâu thẳm nơi mình sẵn có, khai thác được đó là giác, bỏ quên tức là mê, chớ đừng tìm cái gì ở bên ngoài. Đó là điểm chủ yếu Lục Tổ nêu lên, Ngài muốn chúng ta mỗi người nhận ra chớ đừng lầm lẫn tìm kiếm ở đâu khác. Tiếp đến Tổ dạy:
Nay tôi vì nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông, mỗi người được trí tuệ, nên chí tâm lắng nghe, tôi vì các ông mà nói.

Này Thiện tri thức, người đời trọn ngày miệng tụng Bát-nhã nhưng không biết Tự tánh Bát-nhã ví như nói ăn mà không no, miệng chỉ nói Không, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích
42.HT giảng: Trước hết Ngài chỉ sự lầm lẫn của chúng ta. Ngài bảo có người trọn ngày cứ tụng Bát-nhã mà không biết Tự tánh Bát-nhã.

Tự tánh Bát-nhã tức là tánh Bát-nhã sẵn nơi mình.

Hầu hết Phật tử chúng ta ít có người không thuộc kinh Bát-nhã. Ai cũng nói ngày nào tôi cũng tụng đôi ba biến Bát-nhã, nhưng nếu có ai hỏi Tự tánh Bát-nhã là gì thì đều không biết! Như vậy là miệng chỉ tụng mà tâm không thấy, không đạt được, thế nên Ngài mới nói: Ví như người nói ăn mà không no, nói tôi ăn bánh bao, tôi ăn bánh mì v.v... cả trăm thứ bánh nhưng rốt cuộc bụng vẫn đói meo! Nói ăn chưa phải là ăn, ăn phải thực sự ăn, chỉ nói suông chưa đủ.

Cũng thế, nếu chúng ta tu mà chỉ một bề đọc tụng, đó chỉ có giá trị bên ngoài, chớ chưa có giá trị thật ở trong, giá trị thật ở trong là giá trị chúng ta nhận được. Đức Phật vì chúng ta chỉ cái chúng ta đã bỏ quên, nhân lời chỉ đó chúng ta nhận ra nó, đó là chúng ta biết tụng kinh để thấy tánh; trái lại chúng ta chỉ một bề đọc tụng cho hay, nhưng không nhận ra Phật muốn chỉ cái gì cho mình, ví như người nói ăn mà bụng không no, thế nên Tổ mới bảo: “miệng chỉ nói không, muôn kiếp chẳng thấy tánh”, như vậy trọn không có lợi ích.

Người trí khác hơn người mê ở điểm: Lục Tổ nghe người tụng một câu, chỉ mới nghe thôi mà đã thấy, còn chúng ta hiện nay đích thân tụng mà vẫn không thấy gì cả. Đó là điểm khác nhau. Như vậy chúng ta phải cố gắng lắng nghe lời dạy của Tổ, để biết tinh thần Tự tánh Bát-nhã ra sao, đó là cái chủ yếu mà Ngài cố dạy chúng ta trong phẩm này.
42.Toát yếu: Một khi hành giả hiểu "Tự tánh Bát-nhã" là cái thấy của mình, chớ không phải cái thấy nơi người khác. Rồi từ đó mà thực hành hạnh Bồ tát. Thì sớm muộn sẽ thấy tánh thôi.
Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia, nó phải là hành nơi tâm, không phải tụng ở miệng.
43. HT.giảng:Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia hay có chỗ cũng dịch là Trí tuệ cứu kính viên mãn, trí tuệ đó phải nơi tâm mình phát ra, phải ngộ lấy, chớ không phải tụng suông ngoài miệng, nếu cứ cho tụng suông là đủ, là chúng ta không hiểu được trí tuệ này, vì trí tuệ này là trí tuệ của mình nên cần phải hành ở tâm chớ không phải tụng ở miệng.
Miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm tâm hành ắt tâm và miệng hợp nhau, Bản tánh là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.
44.HT giảng: Câu này nhiều người dễ hiểu lầm. Lục Tổ dạy: “miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn, như hóa, như sương, như điện v.v...” ý Ngài như thế nào? Có phải tụng kinh Bát-nhã thấy các pháp như mộng, như huyễn, như sương v.v... phải không? Hay là nghĩa như thế nào? Đoạn này ý Ngài bảo: Chúng ta chỉ tụng suông ở miệng thì việc đó chợt qua rồi mất cũng như huyễn, như hóa, như sương, như điện chớp chớ không có thật. Nếu chỉ tụng suông, khi tụng thì còn nói Bát-nhã, dừng tụng thì Bát-nhã mất, cũng như sương mù, điện chớp, chợt thấy rồi mất, không có thật. Thế nên chủ yếu Ngài khuyên chúng ta miệng tụng tâm phải hành, như thế tâm miệng tương ưng, tâm và miệng hợp nhau tự nhiên chúng ta sẽ thấy được Phật tánh, chính Bản tánh ấy là Phật, lìa Bản tánh ra không còn có Phật nào khác.
Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha là lớn, tâm lượng rộng lớn ví như hư không, không có bờ mé, cũng không có vuông tròn lớn nhỏ, cũng không phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không có trên dưới dài ngắn, cũng không sân không hỉ, không phải không quấy, không thiện không ác, không có đầu đuôi, cõi nước chư Phật trọn đồng với hư không; diệu tánh của người đời vốn không, không có một pháp có thể được, Tự tánh chân không cũng lại như thế.
45. HT. giảng: Tôi giảng rõ lại một lần nữa, chữ Ma-ha nghĩa là lớn, vì tâm lượng của chúng ta rộng lớn như hư không, tâm lượng đó gọi là tâm lượng Bát-nhã, rộng lớn không có bờ mé, không có các tướng vuông tròn dài ngắn xanh vàng... cho đến không có những tâm niệm phải quấy, tốt xấu v.v…

Tâm thể đó bao trùm tất cả cõi nước của chư Phật, giống như hư không; diệu tánh của người đời cũng vậy, vốn không một pháp có thể được, bởi không một pháp có thể được nên gọi là Tự tánh chân không. Như vậy quí vị hiểu chữ Chân Không tôi đặt cho Tu viện chưa? Chân không tức là cái thể thênh thang của Bát-nhã. Bát-nhã là trí tuệ, trí tuệ thênh thang không có bờ mé, không có giới hạn, không có một vật ở trong, chỉ là cái trí tuệ rộng thênh thang, trí tuệ đó gọi là Chân không. Đó là chỗ mà Lục Tổ bảo là “Bản lai vô nhất vật” và do đó mà Ngài được vào cửa Thiền.

Bản lai vô nhất vật là tinh thần của Chân không, không có một vật, vì thể đó thênh thang. Ví dụ như trong nhà thiền này, hiện chúng ta gồm cả trăm người tụ họp nơi đây, khi mãn giờ giảng rồi nhà thiền này như thế nào? Cả trăm người tụ hội thì có tiếng ồn, khi tất cả ra khỏi nhà giảng thì nhà giảng trống không.
Trống không là không có người chớ không phải là không có nhà thiền, nhà thiền vẫn có, nhưng không có người, không có tiếng động lao xao nên nói nhà thiền trống. Cũng thế, hiện tâm chúng ta chứa đủ tham sân si nên thương buồn giận ghét v.v... luôn đầy ứ trong đó, do đó chưa bao giờ chúng ta thấy được cái thể rỗng lặng sáng suốt. Sở dĩ chúng ta tu là để loại những niệm tham sân si ra, khi chúng bị loại ra hết thì chỉ còn một cái trí sáng ngời, đó gọi là Chân không; cái không chân thật, không còn những niệm sanh diệt chứa trong đó.

Vậy quí vị thử kiểm lại tâm mình xem sao, nó là Chân không hay nó quá đầy đến độ muốn tràn ra nữa? Vì thế cả ngày chúng ta cứ mê muội theo những tướng sanh diệt, nó dẫn chúng ta chạy ngược chạy xuôi rồi buồn, thương, giận, ghét v.v... do đó mặt mày luôn thay đổi, không bình tĩnh, điềm đạm. Nay nếu tâm chúng ta loại hết những niệm đó thì khi ấy tự nhiên là một Tâm thể rỗng rang, và Tâm thể rỗng rang này gọi là Trí tuệ Bát-nhã, có chỗ khác gọi là Chân tánh hay Tự tánh.

Quí vị thấy đâu có gì lạ, chính cái đó sẵn nơi mình, chỉ vì chúng ta không thấy được kho chứa mà chỉ thấy những hạt giống chứa trong kho, những hạt giống đó ra vào lăng xăng rồi chúng ta chạy theo chúng mãi, nên quên mất cái kho sáng suốt rỗng rang của chính mình. Khi nào tất cả quí vị không còn một niệm dấy lên, tôi xin hỏi quí vị lúc đó có tri, có giác hay không? Tai có nghe, mắt có thấy hay không? Tướng mạo của cái hay thấy hay nghe đó như thế nào? Quí vị thử diễn tả xem! Khi tất cả vọng tưởng lặng hết chỉ còn cái thấy cái nghe, nghĩa là cảm giác biết tất cả, nhưng không có một niệm nào, khi đó quí vị diễn tả thử xem cái thấy nghe đó tướng mạo ra sao.

Nếu có tướng mạo thì có giới hạn, không tướng mạo tức là vô hạn.

Nói Đại là như thế, nó không có giới hạn, nó bao trùm tất cả, nhưng hiện nay nó bị khuôn, bị cuộc trong tứ đại này thành bị giới hạn; nếu một ngày nào chúng ta sống được với Thể tánh đó, rời khỏi thân này thì nó trùm cả tam giới. Đây giải nghĩa chữ Đại là như thế.

Rộng lớn thênh thang là khi nào không còn một niệm duyên theo cảnh, chỉ có cái hằng thấy hằng nghe, hay nói gọn hơn là chỉ một Tánh giác, đó mới là thênh thang, mới là rộng lớn. Còn tất cả những niệm tưởng, dù là niệm tưởng hư không cũng có giới hạn.

Chữ Đại là thoát ra ngoài tất cả những tướng trạng đối đãi, không còn đối đãi nữa thì tướng mạo của Tâm thể này hay của Trí tuệ Bát-nhã là như thế. Nói thênh thang là để chúng ta thấy rõ nơi chúng ta có một cái rộng lớn thênh thang hằng tri hằng giác, mà chúng ta bỏ quên, rồi bám vào những tướng buồn vui, giận ghét, theo hình sắc, theo âm thanh cho đó là mình, nên chúng ta bị quyện ở trong ấy, như những cọng cỏ bị cuốn trong bánh xe đang quay vùn vụt không gỡ ra được, cứ như thế mà trôi lăn trong sanh tử, lên xuống không có ngày cùng.

Nay chúng ta biết gỡ ra, không kẹt vào đó nữa, tự nhiên tâm hồn mình thênh thang. Đó là chỗ mà chư Phật, chư Tổ cố tình muốn chỉ cho chúng ta. Sống được với cái đó rồi, mới thấy nó là cái chân thật. Vì thế quí vị mới thấy rõ chủ trương của đạo Phật dạy chúng ta tu là phải định.

Định là gì? Tức là dừng các vọng tưởng lăng xăng, vui buồn giận ghét lao xao. Dừng được chúng rồi mới thấy Tâm thể thênh thang, mới đi đến chỗ giác ngộ. Tất cả phương pháp, không phương pháp nào ngoài định; định là định những vọng tưởng lăng xăng, mà lâu nay chúng ta cứ chấp nhận là mình, nên nó mới dẫn chúng ta chạy vùn vụt không phút nào ngừng, cả đến giờ nghỉ cũng không nghỉ, chạy riết đến nóng đầu, đó là tại chúng ta đã lầm nhận nó là mình! Như thế bao nhiêu phương pháp của Phật, Tổ dạy cốt để chúng ta dừng được vọng tưởng, dừng được rồi mới thấy Tâm thể thênh thang của chính mình, Tâm thể thênh thang đó gọi là Ma-ha Bát-nhã. Như thế hàng ngày quí vị tụng ba biến, bảy biến Bát-nhã mà những chữ đầu có vẻ chưa thấm. Nếu chúng ta thấm các chữ đó rồi thì tụng Bát-nhã là để chúng ta sống, chớ không phải tụng suông.

Đa số người hiện nay cứ tụng suông, tụng rồi tính biến để cộng sổ, kể công với Phật, mà không hiểu điểm quan trọng chính là phải sống trở lại trí tuệ của mình. Chúng ta chỉ nhớ lời Phật dạy mà không biết trở lại cái Thể chân thật của chính mình nên mới lầm lẫn. Nhân giảng Bát-nhã tôi mới nói cho quí vị biết ý nghĩa chữ Chân Không tên của Tu viện chúng tôi.

Chính chỗ mà đức Lục Tổ chỉ, chỗ không có một vật, vốn không một pháp có thể được, chỗ đó mới gọi là Tự tánh chân không, tức là tánh của chính mình, thật là rỗng rang không còn một cái gì trong đó.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Lục Tổ giảng về Pháp không của Hệ Bát Nhã.
Này Thiện tri thức, chớ nghe tôi nói Không liền chấp không, thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không ngồi tĩnh tọa, đó tức là chấp vô ký không.
46.HT giảng: Ngài dạy đừng có nghe Ngài nói không rồi chấp không, như chấp Chân không là không có gì cả, nếu cho thật không có gì cả là lầm. Không có tất cả những vọng tưởng lăng xăng, chớ cái rỗng rang chân thật đâu phải không, cũng như tôi đã thí dụ không có người lao xao trong nhà thiền, chớ không phải cái nhà là không.

Nhiều khi chúng ta hiểu lầm nghe nói không là bám vào không, nói là không ngơ rồi nghĩ tu đến chỗ không ngơ đó làm chi. Thế nên chấp không là một bệnh, Lục Tổ mới bảo: “Thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không ngồi tĩnh tọa đó là chấp vô ký không.” Có người vì nghe nói giữ tâm mình cho đừng xao xuyến, đừng loạn động, cho nó không ngơ mới đúng, nên khi ngồi để tâm không ngơ, nghĩa là không cho nó có gì hết, như vậy đúng không? Đó là vô ký không, cái không mà không biết gì cả.

Trái lại người biết tu, khi không có vọng niệm thì cái Thể tri giác tràn đầy. Cũng như nghe tôi nói trong nhà thiền không có người, quí vị biết đây là nhà thiền trống. Nhà thiền trống chớ không phải không có nhà thiền. Tôi nói trong nhà thiền không có người thì đừng chấp là không có nhà thiền, không là không người, chớ không phải là không có nhà thiền.

Cũng thế không có những tâm loạn tưởng, chớ không phải không có trí Bát-nhã thênh thang. Hiểu như vậy thì khi chúng ta lặng hết những vọng tưởng tức trí Bát-nhã thênh thang hiện tiền, hằng nghe, hằng thấy, như thế làm sao nói là không.

Thế mà có nhiều người đọc kinh Pháp Bảo Đàn đến đoạn này thì sợ, nói rằng: Thầy dạy con buông xả, đừng để tâm theo vọng tưởng, mãi rồi nó im lìm, nó không ngơ thì lúc đó lạc vào chỗ chấp vô ký không của Lục Tổ nói rồi! Đó là đa số người đã lầm lẫn. Thật ra chúng ta nói không và người không biết mà nói không, hai bên khác nhau. Người không biết khi nói không là để không ngơ luôn không biết chi cả; còn chúng ta nói không vọng tưởng, khi vọng tưởng lặng cái tri giác hay cái hằng tri hằng giác đó hằng nghe hằng thấy. Tôi thường chỉ quí vị tuy không có vọng tưởng, nhưng mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, tất cả giác quan đều có biết thì làm sao nói không được. Không là không vọng tưởng chớ cái hằng giác đó đâu có không, như thế đâu có rơi vào “vô ký không” như Lục Tổ nói. Hiểu thật rõ, quí vị mới không bị lầm. Thế nên người tu chỉ nhích một tí là sai, khéo một chút là đúng.

Tôi thường nhắc quí vị lời dạy của ngài Huyền Giác: “tỉnh tỉnh lặng lặng phải” và “lặng lặng tỉnh tỉnh phải”, lặng lặng là không nhưng hằng tỉnh tỉnh, chớ không phải là không ngơ. Trái lại “tỉnh tỉnh loạn tưởng sai” và “lặng lặng hôn trầm sai”. Thế nên chúng ta phải thấy rõ lặng trong cái tỉnh, tỉnh trong cái lặng thì phải. Nếu tỉnh mà loạn thì sai, khi ngồi tỉnh táo mà nghĩ đủ chuyện thì đó là bệnh. Nếu lặng lặng mà vẫn tỉnh vẫn sáng thì đúng, nếu lặng lặng mà hôn trầm, gật lên gật xuống là sai. Quí vị nhớ đó là một công thức rõ ràng trong khi tu để biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Có nhiều người ngồi gật lên gật xuống, nói: “hôm nay tôi ngồi không có chút vọng tưởng nào”, ngồi ngủ thì làm sao có vọng tưởng.

Có người nói: “tôi ngồi tỉnh táo” mà thật là nghĩ nhớ đủ chuyện, như thế cả hai đều sai. Phải tỉnh mà lặng, lặng mà tỉnh mới đúng, chớ lặng mà thiếu tỉnh, tỉnh mà thiếu lặng đều là sai. Quí vị phải nhớ lặng là không, tỉnh là hằng giác, như thế luôn luôn cạnh cái không có cái giác chớ không phải là không ngơ, nên không lạc vào vô ký không. Những người không biết, ngồi để tâm không ngơ, đâu biết thế nào là tỉnh, thế nào là lặng nên rơi vào vô ký không, đó là do không biết được cái tỉnh trong cái không; trái lại chúng ta không mà tỉnh, chớ không phải chỉ có lặng, đó là yếu điểm của sự tu.
46.Toát yếu: Trích đoạn HT giảng- Tôi thường chỉ quí vị tuy không có vọng tưởng, nhưng mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, tất cả giác quan đều có biết thì làm sao nói không được. Không là không vọng tưởng chớ cái hằng giác đó đâu có không, như thế đâu có rơi vào “vô ký không” như Lục Tổ nói.
Này Thiện tri thức, thế giới hư không hay bao hàm vạn vật sắc tượng, mặt trời, mặt trăng, sao, núi, sông, đất liền, suối khe, cỏ cây rừng rậm, người lành người dữ, pháp lành pháp dữ, thiên đường địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, thảy ở trong hư không. Tánh không của người đời cũng lại như thế.
47. HT giảng: Trong đoạn này, Ngài dùng hư không để ví dụ cho Tánh không của chúng ta, hư không bao trùm tất cả thế giới, người vật v.v... đều nằm trong hư không. Có thế giới nào không nằm trong hư không? Có vật nào không nằm trong hư không? Như vậy hư không bao trùm muôn tượng, muôn tượng đều nằm trong hư không. Lục Tổ bảo tâm tánh chúng ta khi rỗng lặng cũng như thế, rộng như hư không nên nói tâm như hư không. Như hư không chớ không phải là hư không, nhớ như thế. Hư không vô tri còn chúng ta hằng giác, như là như cái thể rỗng rang rộng lớn đó, nhưng một bên vô tri, một bên hằng giác nên khác nhau. Nhiều người không hiểu nghe nói tâm như hư không, họ tưởng tu rồi tâm thành hư không, đó là sự lầm lẫn của một số học giả, họ cho Niết-bàn là chỗ không ngơ. Đã không ngơ thì tu làm chi? Thế nên phải biết rõ tất cả sự tu hành chủ yếu là đến chỗ rỗng lặng đó, nó có diệu dụng gì chúng ta mới muốn đến đó, chớ thành không ngơ thì đến làm chi?
47.Toát yếu: Lục Tổ bảo tâm tánh chúng ta khi rỗng lặng cũng như thế, rộng như hư không nên nói tâm như hư không. Như hư không chớ không phải là hư không, nhớ như thế. Hư không vô tri còn chúng ta hằng giác, như là như cái thể rỗng rang rộng lớn đó, nhưng một bên vô tri, một bên hằng giác nên khác nhau.
Này Thiện tri thức, Tự tánh hay bao hàm muôn pháp ấy là Đại. Muôn pháp ở trong Tự tánh của mọi người, nếu thấy tất cả người ác cùng với lành, trọn đều không chấp không bỏ, cũng không nhiễm trước, tâm cũng như hư không, gọi đó là Đại, nên nói là Ma-ha.
48. HT giảng: Đoạn trước Ngài diễn tả thể đại của tâm, của Bát-nhã, đoạn này Ngài chỉ chúng ta cách được thể đại đó, tức là Ngài dạy chúng ta tu. Trước hết Ngài bảo Tự tánh của chúng ta bao hàm muôn pháp, nó trùm tất cả. Tất cả muôn pháp đều ở trong Tự tánh; muốn được tánh rỗng rang đó chúng ta phải làm sao.

Phải thấy tất cả người ác, người lành đều không thủ, không xả, cũng không nhiễm trước, tâm như hư không, đó là Đại. Như thế là được cái tánh rỗng rang đó. Chúng ta được như thế không? Thấy người ác thì giận, thấy người hiền thì thương, bình thường mọi người đều như vậy. Thấy tốt thì thích, thấy xấu thì chê, vì thế mới có nhiễm, có trước, nên tâm mình luôn luôn có chớ không thể không.

Trái lại, nếu thấy tất cả việc đó mà không dính, không nhiễm, tâm rỗng rang như hư không là được tánh như hư không. Dễ hay khó? Quí vị chỉ cần thấy được tất cả mà tâm vẫn như hư không thì tâm đó rỗng rang, còn nếu thấy mà có thêm điều gì như yêu ghét v.v... thì nó hết rỗng rang, tức là nó cuốn theo hình ảnh mình thấy. Đó là Tổ dạy chúng ta tu một cách hết sức đơn giản, như vậy lúc nào chúng ta cũng tu được, đi đâu, đối tiếp ai... nếu muốn được tâm thênh thang thì phải như thế.

Nếu kẹt vào bất cứ một cái nào là mất thênh thang, đó là chỗ ứng dụng tu rất rõ ràng. Nhiều khi đọc qua chúng ta không thấy Tổ dạy tu, nhưng khi nghiên cứu kỹ mới thấy Ngài dạy rất rõ. Vậy muốn được cái tánh rỗng rang đó thì, khi thấy tất cả người thiện ác, tốt xấu v.v... chúng ta đừng thủ, đừng xả, không nhiễm trước thì lúc đó tâm mình đồng với hư không, thể tâm đồng với hư không, thể đó là thể đại nên gọi là Ma-ha.

Thể đại của tâm mình, thể đại của Bát-nhã thênh thang như hư không, nó không tướng mạo, nó trùm hết muôn pháp. Muốn được cái thể đó thì phải tu thế nào? Đối với tất cả việc tốt xấu, phải quấy của người, chúng ta đừng nhiễm, đừng dính mắc. Như thế là Đại, là Ma-ha. Mỗi khi tụng Ma-ha Bát-nhã thì quí vị phải nhớ như vậy, chớ không phải cứ đọc suông là đủ.
48.Toát yếu: Khi HT giảng tới đoạn này, có rất nhiều người còn bị kẹt ở chổ này. Là khi không còn chấp ngã, chấp pháp. Rồi bỏ liều tất cả đời sống xã hội.v.v. Thì sẽ rớt vào thụ động. (Huyển chuyển sao căn bản trí. Từ bi, trí huệ, dũng cảm, theo gương vua Trần, lý là đúng.)
Này Thiện tri thức, người mê miệng nói, người trí tâm hành.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Thực tánh Bát Nhã thế nào?
Này Thiện tri thức, người mê miệng nói, người trí tâm hành.
49.HT giảng: Người mê chỉ nói suông ngoài miệng, còn người trí hành ở trong tâm. Người mê đi đâu cũng nói Bát-nhã, cũng tụng làu làu Bát-nhã ở ngoài miệng, còn người trí không nói một câu Bát-nhã nào nhưng gặp duyên, gặp cảnh thì không chạy theo, như thế trong hai người, người nào tu thật? Một người gặp việc gì cũng nói đó là không, là hư dối, không thật, chỉ nói suông thôi, nhưng tâm vẫn duyên theo; còn một người hằng thấy, hằng biết, tâm không duyên với cảnh thì đó gọi là hành trong tâm.

Thế nên tụng ở ngoài miệng với hành trong tâm là hai việc khác nhau. Hiện nay, đa số người tu chúng ta thích tụng ngoài miệng hơn hành trong tâm. Kinh nào cũng thuộc làu... rồi lấy đó làm sự nghiệp! Tụng cho mình, tụng luôn cả cho người, độ người cũng bằng tụng, như vậy cho là tu Bát-nhã! Vì thế chúng ta phải hiểu rõ chân tinh thần của đạo Phật là phải tỉnh giác, tỉnh giác cái chân thật của chính mình. Nghe kinh để biết điều đúng sai, tà chánh, bỏ những cái sai, cái tà, trở về cái chánh, cái đúng, như thế mới là học đạo, chớ không phải chúng ta học thuộc lòng để nói nhiều, tụng nhiều, căn bản là chúng ta phải hành ở trong tâm, thế mới gọi là người trí biết tu.
49.Toát yếu: Lục Tổ, Này Thiện tri thức, người mê miệng nói, người trí tâm hành.
Lại có người mê, để tâm rỗng không ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ tự gọi là đại, một bọn người này không nên cùng họ nói chuyện vì là tà kiến.
50.HT giảng: Tổ quở nặng những người nói để tâm rỗng không, không cho nghĩ gì cả, đó gọi là đại, bọn người này không nên cùng họ nói chuyện, vì sao? Vì họ rơi vào tà kiến.

Tâm không ngơ là vô ký không. Vì những người này không biết vọng lặng thì chân hiện, họ chỉ biết cái vọng thôi mà không biết cái chân, như vậy là tà, tức là nhìn lệch; chỉ để tâm không ngơ tức nhiên rơi vào không, mà rơi vào không, không phải tà kiến là gì? Chúng ta ngồi thiền trăm vật có nghĩ không? Có niệm gì không? Có hai lối niệm: cái niệm dấy lên từng câu, từng lời là cái niệm động, còn cái niệm hằng nhớ Tánh giác của mình, biết mình có Tánh giác, hằng sống với cái tỉnh giác đó thì niệm đó là niệm tỉnh, nên gọi là niệm Chân như.

Niệm là nhớ, hằng nhớ Tánh giác, không chạy theo vọng tưởng, như vậy đâu phải chúng ta không nghĩ.

Tổ Qui Sơn có nói “tư lương phi tư lương xứ”, nghĩa là suy nghĩ chỗ không suy nghĩ, tức là hằng nhớ chỗ không suy nghĩ, chớ không phải là không ngơ. Như vậy mới hằng giác, chính đó gọi là “nhất niệm vạn niên”, là một niệm muôn năm. Bởi vì nhớ là tỉnh, quên thì mê, quí vị ngồi một lúc mà quên không biết mình làm gì thì khi đó muốn gục, hoặc bị dẫn đi chỗ khác. Thế nên mình hằng tỉnh hằng giác, hằng nhớ mình đang sống bằng Tánh giác, chớ không phải là không nhớ, không nghĩ. Còn người nói ngồi không nghĩ gì hết thì họ rơi vào không ngơ, như vậy không phải tà kiến là gì? Thế nên đoạn này không giản trạch khéo một chút, thì người đọc kinh Pháp Bảo Đàn dễ lầm. Quí vị thấy nói để tâm trống không là đúng thì bị Tổ quở nặng, đám người đó không nên nói chuyện với họ, vì đó là tà kiến. Chúng ta không nghĩ tới một vật gì ở ngoài, nhưng hằng nhớ Chân như hằng nhớ Tánh giác, hằng nhớ nên mới tỉnh, chớ còn quên thì mê rồi. Hằng nhớ Tánh giác, nhớ mà không tìm, tỉnh giác mà không tìm nó, tìm nó là sai, chỗ này thật khó nói, nhưng phải hiểu thật rõ mới không lầm. Nếu chúng ta cứ đè, không cho nó nghĩ gì cả, mà nói là Đại, nên bị Tổ quở là tà kiến.
50. Toát yếu:nhất niệm vạn niên”, là một niệm muôn năm. Bởi vì nhớ là tỉnh, quên thì mê ...Thế nên mình hằng tỉnh hằng giác, hằng nhớ mình đang sống bằng Tánh giác, chớ không phải là không nhớ, không nghĩ.
Này Thiện tri thức, tâm lượng rộng lớn khắp giáp cả pháp giới, dụng tức rõ ràng, phân minh ứng dụng liền biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, đi lại tự do, Tâm thể không bị ngăn ngại tức là Bát-nhã.
51. HT giảng:Ngài chỉ cho chúng ta thấy tâm lượng rộng thênh thang đó nếu dụng tức liễu liễu thường tri, nếu dùng thì hằng tri hằng giác chớ không phải không ngơ, rõ ràng ứng dụng chớ không phải là không biết, nghe vẫn hằng nghe, thấy vẫn hằng thấy, đó gọi là liễu liễu thường tri.

Biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, Tâm thể đó thênh thang nên bao trùm tất cả. Như tôi nói tất cả núi sông, cây cối, muôn vật đều nằm trong hư không. Đứng về tất cả cây cối núi rừng v.v... thì rất là nhiều, nhưng đứng về hư không thì không nhiều. Hư không chỉ có một mà trùm tất cả muôn vật, nên một là tất cả; tất cả cây cối núi rừng đều không ngoài hư không, nên tất cả là một.

Cũng như vậy, muôn pháp không rời Tự tánh, thì đó là tất cả là một, Tự tánh tức là tâm tánh mình, tất cả không rời tâm tánh mình nên nói tất cả là một. Tâm tánh mình bao trùm tất cả, nên nói một là tất cả.

Chúng ta nói hư không bao trùm vạn tượng, điều đó ai cũng hiểu, nhưng nói tâm mình bao trùm muôn vật thì ai hiểu nổi? Nói bao trùm, đừng hiểu nó bao trùm tất cả những hiện tượng. Muôn vật có tên là từ đâu mà ra? Muôn vật thành vật này vật vật kia... thành muôn vật là do tâm, như vậy tâm không trùm muôn vật là gì? Nếu không có tâm thì muôn vật có tên muôn vật hay không? Nếu không có tâm thì đâu gọi đây là bàn, đây là ly, đây là đồng hồ v.v... Không có tất cả tên đó, thì muôn vật không thành muôn vật. Tâm trùm muôn vật, muôn vật từ tâm mà ra, điều đó rất là rõ ràng.

Tỉ dụ nơi đây chúng ta có cả trăm người, mỗi người có mỗi tên khác nhau, nên nói cả trăm người khác nhau. Tên khác nhau là từ đâu có? Rõ ràng là từ tâm dấy niệm của cha mẹ hoặc Thầy Tổ ban cho mình một cái danh thành mỗi người khác biệt nhau. Như vậy sự khác biệt đó là do tâm khởi, nếu tâm không khởi thì chắc gặp nhau chúng ta không biết chào gọi nhau bằng gì. Như vậy muôn pháp có là từ tâm.
Đa số người không hiểu cứ nghĩ muôn pháp có là từ tâm mình biến ra, biến cái này nó nhảy ra cái này, biến cái kia nó nhảy ra cái kia, nhưng không ngờ chính vì tâm mới có tên muôn pháp.

Nếu không tâm thì đâu có tên muôn pháp. Muôn pháp không có tên thì đâu thành muôn pháp. Thế nên nói tâm trùm muôn pháp là vậy. Đã trùm muôn pháp thì tâm đó rộng lớn, khắp giáp, nó hằng liễu tri nên khi ứng dụng thì biết tất cả, bởi vì nó an danh tất cả mà không biết tất cả sao được? Tất cả tên là một tâm đặt, nói một tâm, quí vị đừng hiểu là một người, tâm tôi, tâm quí vị cũng là tâm thôi, chúng ta an danh cho mọi sự vật là tâm của chúng ta, mà tâm thì đâu có hai.

Muôn vật từ tâm mà có tên nên nói tất cả là một; từ tâm đó mà có tên muôn vật nên một là tất cả. Như vậy nhìn hai mặt: một là tất cả là từ tâm mà đặt muôn tên khác nhau; tất cả là một vì tất cả đều gốc từ tâm mà có.

Lại tới lui được tự do, không có gì ngăn trở, đó là Bát-nhã. Như vậy Bát-nhã là thênh thang nhưng hằng tri hằng giác, chớ không phải thênh thang như hư không rỗng, không biết gì cả. Cái thể đó, nếu tế nhị một chút là thấy rõ, nhất là khi ngồi thiền, có những phút giây không có một niệm gì, xem như tâm mình trống rỗng, nhưng khi ấy mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, mình vẫn biết, như vậy là hằng tri, hằng giác mà trống rỗng, không phải Bát-nhã là gì? Ai không có cái đó? Chính sống được với cái đó là trở về tâm Phật của mình.

Trái lại, nếu không sống với cái đó mà sống với những buồn thương giận ghét là trở về tâm chúng sanh, tâm tạo nghiệp. Như vậy ai sống với những buồn thương giận ghét hằng ngày, đó là người sống với tâm chúng sanh, còn ai biết buông xả, sống với tâm rỗng rang hằng tri hằng giác không một niệm thương ghét chen lẫn vào, đó là sống với tâm Phật.

Thật là rất gần! Nơi mình có sẵn một kho báu mà không biết dùng. Nếu người có kho báu nhưng không biết dùng, lại than nghèo than khổ thì có đáng thương không? Có mà không biết dùng rồi than trời trách đất, thật là đáng thương. Vì họ không biết dùng nên mới khổ, chúng ta thấy cái khổ đó thật đáng thương, vì vậy đức Phật mới bốn mươi chín năm thuyết pháp độ sanh, nhưng có độ chi đâu. Ngài có cho chúng ta chi đâu mà gọi là độ, Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta có cái đó, sống trở về với cái đó thì hoàn toàn hết khổ, trái lại không sống với cái đó thì khổ không biết chừng nào dứt.
51.Toát yếu: 10 năm trước, tôi cũng giống như bao người khác, trong bước đầu học Phật, Khi nghe giảng Bát Nhã thì luôn luôn nghĩ tất cả điều do duyên. Rồi chấp tất cả là không. Thật là một lối sống đoạn kiến. Ngày nay, cũng là bài giảng này thì cái thấy của Bát Nhã lại thật là mênh mông trùng trùng, điệp điệp của vạn vật Muôn vật từ tâm mà có tên nên nói tất cả là một; từ tâm đó mà có tên muôn vật nên một là tất cả. Như vậy nhìn hai mặt: một là tất cả là từ tâm mà đặt muôn tên khác nhau; tất cả là một vì tất cả đều gốc từ tâm mà có. Do đó các hàng Học giả học Phật pháp trước phải có căn bản. Học các Kinh A-Hàm trước và Phật học phổ thông cho thật rành rẽ, có căn bản rồi. Thì hãy qua gia đoạn Bát Nhã cũng không muộn.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.18 khách