PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT.
Tại bài viết về Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất và Như Lai Thọ Lượng. Ta thấy đã vượt qua Tưởng Ấm. Tiến tu sẽ vượt qua Hành Ấm.
Để Giải Mã phẩm này, ta cần phân tích một chút về hoạt dụng của Ý căn.
Ý căn có hai hoạt dụng chính là :
- Ý thức (Tưởng ấm - Vọng tưởng dung thông) và
- Mạt Na thức (Hành ấm -Vọng tưởng u ẩn).
Tưởng ấm - Vọng tưởng Dung thông.
Xem ví dụ của Đức Bồn Sư trong Kinh Lăng Nghiêm.
"A-nan, thí như có người khi nghe nói me chua thì trong miệng nước bọt chảy ra,
Ta thấy, nghe là thuộc căn Nhĩ căn. Tiết nước bọt thuộc Thiệt căn.
Ví dụ trên cho thấy hai căn này dung thông với nhau.
"Nghĩ đến đứng trên dốc cao lòng bàn chân cảm giác rờn rợn.
Nghĩ thuộc về ý căn, cảm giác rợn rợn thuộc về thân căn.
Ví dụ trên cho thấy hai căn này dung thông với nhau.
"Phải biết tưởng ấm cũng lại như vậy."
Suy rộng ra, Tưởng Ấm là dung thông của sáu căn. Và bản chất của Tưởng Ấm thuộc phạm trù nhớ và quên (khi không biết, không nhớ).
Ví như một người chưa từng ăn quả me, chắc chắn họ không biết quả me chua, và nghe thấy quả me thì chắc chắn miệng sẽ không tiết ra nước bọt.
Người chưa từng leo lên dốc cao, thì chắc khi nghĩ tới leo lên dốc cao thì bàn chân sẽ chẳng thấy rờn rợn.
Vọng tưởng dung thông nếu xét theo Sinh lý học thì thuộc phạm trù phản xạ có điều kiện, phản xạ có điều kiện là do lục căn huân tập mà thành (Ngay trong đời này, kiếp này).
Tham khảo Kinh Lăng Nghiêm (Phần ma hành ấm - Khi đã vượt qua Tưởng Ấm)
"A-nan, thiện nam tử kia tu pháp Tam-ma-địa khi tưởng ấm đã hết thì những mộng tưởng bình thường của người đó đã tiêu diệt, khi ngủ, khi thức luôn luôn một Thể Tính Giác Minh rỗng lặng như hư không, trong trẻo không còn những việc bóng dáng tiền trần thô trọng; xem những núi sông, đất liền trong thế gian, như gương soi sáng khi đến không dính vào đâu, khi qua không để lại dấu vết, rỗng chịu theo sự vật chiếu ứng; rõ ràng không còn tập quán cũ, chỉ một tính tinh chân."
Ta thấy "Tập quán cũ" trong đoạn Kinh Văn trên là nói về Tưởng ấm hay các phản xạ có điều kiện, được hình thành trong đời này, kiếp này. Đây thường được gọi là các Tập Khí.
Khi vượt qua Tưởng Ấm, chúng ta tiếp tục vượt qua Hành Ấm (Vọng tưởng U ẩn).
Hành ấm - Vọng tưởng u ẩn
Tham khảo Kinh Lăng Nghiêm phần nói về Bản nhân của Hành Ấm.
"Lý chuyển hóa không dừng, xoay vần thầm thầm dời đổi, móng tay dài, tóc mọc ra, khí lực tiêu, da mặt nhăn, ngày đêm thay đổi, mà không hề hay biết. A-nan, nếu cái đó không phải là ông, thì làm sao thân ông lại dời đổi; nhưng nếu nó thật là ông, thì làm sao ông lại không hay biết? Vậy các hành mỗi niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư."
Đoạn Kinh văn trên cho ta thấy, hoạt động của Hành ấm diễn ra âm thầm, lặng lẽ, vi tế ở bên trong. Do đó gọi là Vọng tưởng u ẩn.
Vọng tưởng U ẩn hoạt động vô điều kiện. Không cần có tác nhân bên ngoài, hành ấm là các hoạt dụng khởi phát từ các chủng tử nghiệp trong A Lại Da.
Các chủng tử nghiệp này là quả của kiếp này do nhân từ các kiếp trước tạo ra. Nó đã được định hình sẵn khi chúng ta chào đời. Do đó hoạt dụng của nó bền và mạnh (Nghiệp lực)
Vậy tới đây, ta thấy
-Ý thức (Tưởng ấm - Vọng tưởng dung thông) là hoạt dụng dung thông của Lục Căn. Hoạt dụng có điều kiện (Hình thành trong đời này, kiếp này)
-Mạt na thức (Hành ấm - Vọng tưởng u ẩn) là hoạt dụng vi tế được khởi phát từ các chủng tử nghiệp. (Có sẵn khi chào đời).
Trong Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát, để ý ta sẽ thấy Đức Bồn Sư dùng hình ảnh hàng Tỳ kheo tăng thượng mạn để ẩn dụ cho các chủng tử nghiệp :
"Ðắc Ðại Thế !
Vào thuở xa xưa, đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp A tăng kỳ, không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Ðại Thành.
Ðức Phật Uy Âm Vương ở trong cõi nước đó, vì các hàng trời, người, A tu la mà nói pháp.
Vì người cầu Thanh Văn nói pháp tứ diệu đế, độ thoát sinh già bệnh chết, đạt đến cứu cánh Niết Bàn.
Vì người cầu Bích Chi Phật nói pháp mười hai nhân duyên.
Vì các Bồ Tát cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nói pháp sáu Ba la mật, đạt đến trí huệ cứu kính của Phật.
Ðắc Ðại Thế !
Ðức Phật Uy Âm Vương đó, thọ bốn mươi vạn ức Na do tha Hằng hà sa số kiếp. Chánh pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của cõi Diêm Phù Ðề, tượng pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của bốn thiên hạ. Ðức Phật đó, lợi ích chúng sinh rồi, sau đó mới diệt độ.
Sau khi chánh pháp và tượng pháp diệt rồi, ở cõi nước đó, lại có Phật ra đời cũng hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như thế lần lượt có hai vạn ức đức Phật, cũng đều cùng một danh hiệu.
Sau khi đức Phật Uy Âm Vương đầu tiên diệt độ rồi, chánh pháp cũng diệt rồi, thì trong thời tượng pháp, hàng Tỳ Kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn."
Khi vượt qua tưởng ấm, nhờ Ý thức Chuyển thành Diệu Quan Sát Trí nên tiến tu Mạt Na thức chuyển thành Bình Đẳng Tính Trí. Bình Đẳng Tính Trí này được Đức Bổn Sư ẩn dụ bằng hình ảnh Thường Bất Khinh Bồ Tát.
"Bấy giờ, có một Bồ Tát Tỳ Kheo tên là Thường Bất Khinh.
Ðắc Ðại Thế !
Do nhân duyên gì mà tên là Thường Bất Khinh ?
Vì vị Tỳ Kheo đó, bất cứ gặp ai, hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng : Ta rất kính các vị, chẳng dám khinh khi.
Tại sao ?
Vì các vị đều hành Bồ Tát đạo, đều sẽ thành Phật. Mà vị Tỳ Kheo đó, chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ lễ lạy, cho đến ở xa thấy bốn chúng, cũng đều cố đến gần, lễ lạy khen ngợi mà nói rằng : Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật."
Tuy Mạt Na Thức chuyển thành Bình Đẳng Tính Trí, nhưng trước sự tồn tại của các chủng tử nghiệp, sự tương tác, đối xử giữa Bình Đẳng Tính Trí (Thường Bất Khinh Bồ Tát) và các chủng tử nghiệp (Tỳ kheo tăng thượng mạn) ra sao :
"Ở trong bốn chúng, có người sinh tâm sân hận chẳng thanh tịnh, ác khẩu mắng chưởi nói :
Vị Tỳ Kheo vô trí này, từ đâu đến, mà tự nói là tôi chẳng khinh các vị, mà thọ ký cho chúng ta sẽ được thành Phật. Chúng ta chẳng nhận lời thọ ký hư vọng như thế.
Trải qua nhiều năm như thế, thường bị mắng chửi mà chẳng sinh tâm sân hận. Thường nói như vầy : Các vị sẽ thành Phật.
Khi nói lời đó, thì mọi người đều dùng gậy ngói đá đánh ném.
Ngài bèn chạy trốn thật xa, mà vẫn lớn tiếng nói : Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật. Bởi thường nói lời như thế, cho nên hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn gọi Ngài là Thường Bất Khinh. "
Ta thấy, các chủng tử nghiệp (Tỳ Kheo Tăng Thượng Mạn) này là quả do nhân đã được huân từ đời trước kiếp trước nên bền và mạnh. Bình Đẳng Tính Trí - Thường Bất Khinh Bồ Tát không thể chuyển được chúng (Nghiệp - Các tập khí), còn bị đàn áp và phương án tối ưu lúc này là phải "chạy trốn thật xa "
Phương án "chạy trốn thật xa" theo tôi là một Diệu Pháp của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Với Diệu Pháp trên, ta sẽ giữ được Ý căn được thanh tịnh (Không còn tạo nghiệp - Chuyển được Mạt Na Thức).
Do chuyển được Mạt Na Thức thành Bình Đẳng Tính Trí nên vào được Bát Địa (Bất Động Địa)
Đã vào tới Bát Địa (Bất động địa) nên được Nguyện ba la mật.
Tham khảo kinh Hoa Nghiêm, phần Thập địa - Bất động địa
"Trong mười môn la la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về nguyện ba la mật, "
Do đó Đức Bồn Sư tiếp tục ẩn dụ :
"Ngài bèn chạy trốn thật xa, mà vẫn lớn tiếng nói : Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật."
Tiếp sau đó :
"Khi vị Tỳ Kheo đó sắp lâm chung"
Đây là Đức Bồn Sư ẩn dụ cho giai đoạn này thuộc về Hành ấm
Tham khảo Kinh Lăng Nghiêm về biên giới của Hành ấm
"Chỉ diệt và sinh, là biên giới của hành ấm"
Do Hành ấm thuộc phạm vi của Sinh và Diệt, gồm hai địa là Thất Địa và Bát Địa
Tham khảo Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Hòa Thượng Thích Thanh Từ Giảng Giải về phần phá Hành Ấm
"Phá Hành ấm vào Thất địa và Bát địa Bồ-tát."
Nên Đức Bổn Sư tiếp tục ẩn dụ về giai đoạn Thất Địa :
"Khi vị Tỳ Kheo đó sắp lâm chung, thì ở trong hư không, nghe đủ hai mươi ngàn vạn ức bài kệ Kinh Pháp Hoa, của đức Phật Uy Âm Vương nói trước kia."
Tham khảo Kinh Hoa Nghiêm, phần Viễn Hành Địa (Địa thứ bảy).
"Phật tử!
Đại Bồ Tát an trụ đệ thất địa này rồi, thời
...
vào vô lượng công nghiệp giáo hóa chúng sanh của Chư Phật ,
(Phần trên đã nêu trong Phẩm Phân Biệt Công Đức)
Tiếp theo, vào Bát Địa Bồ Tát, chứng Vô Sanh Pháp Nhân, nhập Tánh Viên Giác nên
"Ngài nghe rồi thọ trì, bèn được căn mắt thanh tịnh, căn tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đều thanh tịnh .Ðược sáu căn thanh tịnh rồi, thì càng tăng tuổi thọ đến hai trăm vạn ức Na do tha tuổi, rộng vì người nói Kinh Pháp Hoa này."
(Cụ thể đã nêu trong Phẩm Pháp Sư Công Đức)
Sau cùng, Thường Bất Khinh Bồ Tát mới chuyển hóa được các Tỳ Kheo tăng thượng mạn.
"Bấy giờ, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn khinh khi vị đó, đặt tên là Thường Bất Khinh, thấy vị đó đắc được sức đại thần thông, sức nhạo thuyết biện tài, tâm lương thiện. Nghe vị đó nói pháp, đều tin thọ đi theo.
Vị Bồ Tát đó, lại giáo hóa hàng ngàn vạn ức chúng, khiến cho họ trụ nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mạng chung, được gặp hai ngàn ức vị Phật, đều hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh. Ở trong pháp đó thường nói Kinh Pháp Hoa này. Bởi nhân duyên đó, lại được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng hiệu là Vân Tự Tại Ðăng Vương. Ở trong pháp của các đức Phật đó, đều thọ trì đọc tụng, vì bốn chúng nói kinh điển này, cho nên được mắt thường thanh tịnh, tai mũi lưỡi thân ý các căn đều thanh tịnh. Ở trong bốn chúng nói pháp tâm chẳng sợ hãi.
..."
Tóm lại, Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát chỉ cho chúng ta thấy khi vượt qua Tưởng ấm, tiến tu sẽ chuyển được Mạt na thức thành Bình Đẳng Tính Trí, nhưng Nghiệp lực (Chủng tử nghiệp) trong A Lại Da vẫn tồn tại và hoạt động. Để chuyển hóa được chúng, ta phải dùng Diệu Pháp của Kinh Pháp Hoa để thâm nhập Vô sanh pháp nhẫn, vào Tính Viên Giác, thanh tịnh lục căn, sau đó tiếp tục tiến tu mới có thể hóa giải được các chủng tử nghiệp này.
Khi thâm nhập được Vô Sanh Pháp Nhẫn, thanh tịnh lục căn là đã vượt qua Hành Ấm.
Chân thành cảm ơn các thầy, các bạn trên diễn đàn đã đọc bài viết này.
Nếu trong bài viết có gì sai sót mong được chỉ bảo.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.