.Nay tôi để bài kệ cùng các ông từ biệt gọi là Tự Tánh Chân Phật Kệ, người đời sau biết được ý kệ này, tự thấy Bản tâm, tự thành Phật đạo. Kệ rằng:
Chân như Tự tánh thị chân Phật,
Tà kiến tam độc thị Ma vương,
Tà mê chi thời ma tại xá,
Chánh kiến chi thời Phật tại đường
191.HT giảng: Chân như Tự tánh của mình là Phật thật, còn tà kiến, tam độc tham sân si tức là Ma vương. Chúng ta cứ sợ tu bị Ma vương phá, nhưng không ngờ tham sân si, tà kiến là Ma vương, ngày nào cũng phá chúng ta mà chúng ta không biết. Khi khởi tà mê thì ma ở trong nhà, còn khi khởi chánh kiến thì Phật ngồi trong nhà. Vậy hỏi lúc nào có Phật ở trong nhà? Khi nào chúng ta khởi chánh kiến, thấy đúng. Trái lại khi mình khởi tà mê là ma vào nhà. Như vậy nhà mình chứa đủ cả Phật lẫn ma. Ai khởi tà kiến mê lầm là rủ ma về, ai khởi chánh kiến đúng đắn thì rước Phật về. Ai muốn thờ Phật thì ráng nhớ như thế, rước Phật về thờ cho chân chánh.
Trong tánh mình tà kiến tam độc dấy lên, đó tức là Ma vương đến ở trong nhà. Còn trong tánh mình chánh kiến tự trừ tam độc là chúng ta chuyển ma thành Phật, đó là chân thật không giả dối.Tánh trung tà kiến tam độc sanh,
Tức thị Ma vương lai trụ xá,
Chánh kiến tự trừ tam độc tâm,
Ma biến thành Phật chân vô giả.
Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, ba thân đó xưa nay là một thân thôi, nếu nhằm trong tánh mình mà hay tự thấy thể chung của ba thân, tức là nhân Bồ-đề, nhân thành Phật chớ không có chi lạ. Vì tuy ba thân nhưng đồng một thể, một thể là Tự tâm. Ba thân Phật, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân đều gốc Tự tâm mình. Nếu thấy đúng như vậy là mình tạo nhân Bồ-đề thành Phật.Pháp thân, Báo thân cập Hóa thân,
Tam thân bản lai thị nhất thân,
Nhược hướng tánh trung năng tự kiến,
Tức thị thành Phật Bồ-đề nhân.
Vốn từ Hóa thân sanh Tánh thanh tịnh, Tánh thanh tịnh thường ở trong Hóa thân này, nghĩa là ngay thân giả dối này có cái Tánh chân thật, Tánh chân thật đó ở ngay trong thân giả dối này chớ không ở đâu xa. Do có Tánh chân thật đó mới dấy niệm để mình biết tu, biết làm lành, biết hướng về cái chân thật, về sau này viên mãn, đó là chỗ chân thật không cùng tận.Bản tùng Hóa thân sanh tịnh tánh,
Tịnh tánh thường tại Hóa thân trung,
Tánh sử Hóa thân hành chánh đạo,
Đương lai viên mãn chân vô cùng.
192.HT giảng: Tánh dâm vốn là nhân của Tánh thanh tịnh, trừ dâm tức là thân tánh thanh tịnh. Nói như thế thật khó hiểu, vậy tôi nói sân nguyên là Bồ-đề, có được không? Vì khi sân chưa dấy lên đó là Bồ-đề, do cảnh quấy nhiễu dấy lên thành sân, khi sân lặng xuống thì thành Bồ-đề lại.Dâm tánh bản thị tịnh tánh nhân,
Trừ dâm tức thị tịnh tánh thân,
Tánh trung các tự ly ngũ dục,
Kiến tánh sát-na tức thị chân.
Như vậy sân gốc từ Bồ-đề nhưng vì mê theo cảnh nên dấy động thành phiền não. Đối cảnh mà không dấy động thì phiền não thành Bồ-đề. Vì thế tất cả tánh, chúng ta đừng dùng cách này cách kia trừ, mà phải biết rõ Thật tánh của nó là như thế. Thật tánh của nó như thế là sao? Như chúng ta thấy sóng, thử hỏi làm sao trừ sóng? Sóng dấy lên từ nước, nay muốn cho sóng lặng phải làm sao? Gió dừng, sóng lặng cũng trở về nước lại. Sóng không có Thật thể chỉ do một cơn quấy động của gió. Cũng thế tham sân si, phiền não không có Thật thể, do mê chạy theo cảnh mà dấy lên, khi hết mê thì nó là tánh Bồ-đề. Hiểu như thế, chúng ta thấy rõ không cần phải trừ nó mà cần phải dừng duyên, đừng lầm mê nữa, tự nhiên nó lặng xuống. Thế nên trong tánh đều tự lìa ngũ dục, người thấy tánh chỉ trong khoảng sát-na tức là được chân thật.
Đời này nếu gặp pháp môn đốn giáo, chợt ngộ được Tự tánh, thấy được Phật, nếu muốn tu hành mong làm Phật, không biết nơi nào nghĩ tìm chân. Vậy chúng ta muốn thành Phật thì phải làm sao? Tức ngay nơi Tự tánh mình, chớ muốn tìm làm Phật ở bên ngoài thì không chỗ nào tìm được chân cả. Phật thật chỉ nơi tâm tánh chúng ta, chớ không phải ở ngoài, nếu tìm bên ngoài không bao giờ có.Kim sanh nhược ngộ đốn giáo môn,
Hốt ngộ Tự tánh kiến Thế Tôn,
Nhược dục tu hành mích tác Phật,
Bất tri hà xứ nghĩ cầu chân.
Nếu hay trong tâm tự thấy chân, có chân tức là nhân thành Phật, ngay nơi tâm mình thấy cái chân thật, vừa thấy cái chân thật, đó là nhân thành Phật. Chẳng thấy Tự tánh, bên ngoài tìm Phật, khởi tâm tìm Phật thảy là người đại si. Nếu không ngay tâm mình thấy Phật lại chạy ra ngoài tìm Phật, vừa khởi tâm ra ngoài tìm Phật, đó là người ngu to chớ không phải ngu vừa.Nhược năng tâm trung tự kiến chân,
Hữu chân tức thị thành Phật nhân,
Bất kiến Tự tánh ngoại mích Phật,
Khởi tâm tổng thị đại si nhân.
Pháp môn đốn giáo ngày nay đã lưu truyền để cứu độ người thế gian phải tự tu hành, bảo các ông những người học đạo đời sau (Tổ nói với chúng ta đấy) không khởi cái thấy như thế này (thấy đúng như Tổ dạy) thì rất là xa xôi.Đốn giáo pháp môn kim dĩ lưu,
Cứu độ thế nhân tu tự tu,
Báo nhữ đương lai học đạo giả,
Bất tác thử kiến đại du du.
193.HT giảng: Tổ căn dặn thật rõ ràng, nếu y theo lời Tổ dạy dầu Ngài có tịch rồi cũng như Ngài hiện có mặt, nếu trái lời Tổ dạy thì giả sử Ngài có mặt cũng không lợi ích gì. Đó là lời dặn thiết tha của Ngài.Tổ nói kệ rồi bảo rằng:
Các ông ở lại an vui, sau khi tôi diệt độ, chớ làm theo thế gian khóc lóc như mưa, nhận lễ vật điếu tang, thân mặc hiếu phục, chẳng phải là đệ tử của tôi cũng không phải là chánh pháp. Chỉ biết tự Bản tâm, thấy tự Bản tánh, không động không tịnh, không sanh không diệt, không đi không lại, không phải không quấy, không trụ không vãng, e các ông trong tâm mê, không hiểu ý tôi, nay lại dặn dò các ông khiến các ông thấy tánh. Sau khi tôi diệt độ, y theo đây tu hành, như ngày tôi còn sống, nếu trái lời tôi dạy, giả sử tôi còn ở đời, cũng không có lợi ích gì.
Tôi nhắc lại, Tổ dặn sau khi Ngài tịch rồi, thứ nhất là đừng có khóc lóc như mưa, thứ hai là đừng thọ người ta cúng điếu, thứ ba là đừng mặc áo tang v.v... vì làm như vậy không phải là đệ tử của Tổ và cũng không hợp với chánh pháp. Thế mà sau này nhiều chùa cũng bày nhiều việc, đó là không hợp, chúng ta phải biết rõ như vậy.
194.HT giảng: Ngơ ngơ không tu thiện, ngáo ngáo không làm ác, ngơ ngơ ngáo ngáo không làm thiện không làm ác, lặng lẽ dứt mọi thấy nghe, thênh thang tâm không dính mắc. Đây là điểm thiết yếu, nghĩa là chúng ta tu mà đối với điều thiện chúng ta như lơ là, đối với điều ác chúng ta cũng như lạnh nhạt tức là không dính nơi thiện, không kẹt nơi ác, cả thấy nghe đều lặng lẽ, tâm thênh thang không dính mắc bất cứ điều gì. Đấy là chỗ giải thoát.Tổ lại nói kệ rằng:
Ngột ngột bất tu thiện,
Đằng đằng bất tạo ác,
Tịch tịch đoạn kiến văn,
Đãng đãng tâm vô trước.
Vui không? Như vậy khóc làm chi!Tổ nói kệ rồi ngồi ngay thẳng đến canh ba, chợt bảo đệ tử rằng: “Tôi đi nhé!” Rồi im lặng mà hóa.
195.HT giảng: Tổ vừa tịch, các đồ đệ muốn tranh giành rồi. Khi sanh tiền Tổ ở ba chùa tại ba quận trên, nay nghe Ngài tịch ba nơi kéo đến giành rước về chôn đặng chùa mình được hưởng lợi lớn, thật là trái với lời Tổ dạy.Khi ấy mùi hương lạ đầy cả thất, có một móng trắng vòng giáp đất, trong rừng cây cối đều biến thành màu trắng, cầm thú kêu vang bi thương.
Đến tháng mười một, quan liêu cùng môn nhân tăng tục ba quận Quảng, Thiều, Tân, đua nhau tới đón thân của Tổ.
196.HT giảng: Tổ tịch rồi thân Ngài khô lại chớ không rã, còn nguyên cho đến sau này. Trong quyển Tổ Huệ Năng có chụp hình thân của Ngài. Khi có người vào cắt cổ Ngài, gặp sắt gây tiếng động nên bị bắt.Không giải quyết được việc tranh giành mới thắp hương khấn đảo rằng: “Khói hương chỉ về chỗ nào là Tổ về chỗ ấy.” Khi ấy khói hương bay thẳng về Tào Khê. Ngày mười ba tháng mười một dời thần khám và những y bát được truyền trở về. Năm kế tháng bảy mới mở khám, đệ tử Phương Biện dùng đất trầm tô lên trên, đệ tử nhớ lời huyền ký sẽ bị lấy đầu của Tổ, mới lấy sắt lá bao quanh cổ để giữ cổ của Tổ rồi đưa vào trong tháp.
197.HT giảng: Tóm lại trước khi tịch, Tổ dặn dò kỹ lưỡng từ công việc truyền bá Phật pháp, phải truyền bá thế nào, nói pháp thế nào, cho đến sự tu hành, phải ứng dụng Nhất tướng tam-muội, Nhất hạnh tam-muội và khi Ngài tịch phải làm lễ ra sao v.v...Chợt trong tháp có hào quang trắng hiện ra thẳng lên trên trời, ba ngày mới tan. Thiều Châu tâu lên Vua và phụng sắc lập bia ghi đạo hạnh của Tổ. Tổ sống bảy mươi sáu tuổi, hai mươi bốn tuổi được truyền y, năm ba mươi chín tuổi mới thế phát, nói pháp lợi sanh ba mươi bảy năm, đệ tử nối pháp bốn mươi ba người, người ngộ đạo siêu phàm không biết bao nhiêu mà tính. Tín y của Tổ Đạt-ma truyền, áo ma-nạp cùng với bát báu của vua Trung Tông ban cho và tượng của Phương Biện đắp cùng với những đạo cụ của Tổ để tại đạo tràng Bảo Lâm, lưu truyền kinh Pháp Bảo Đàn để bày tông chỉ của Tổ, hưng long Tam Bảo và lợi ích quần sanh.
Ngài chỉ dạy tỉ mỉ rành mạch. Người học đạo hiểu được lý đạo rồi mới thấy lòng từ bi của Tổ thật không sao kể xiết. Ngài không truyền y, truyền bát mà chỉ truyền pháp tức là truyền kinh Pháp Bảo Đàn để chỉ dạy người sau.
Toát yếu 197: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Sau đó là kinh A-Hàm hoặc kinh Tạng Pali. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo". (Toàn bộ: Pháp bảo đàn kinh, đến đây là hết.)