KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

Mời các bạn cùng TQ đọc bản kinh này nhé


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

Việt dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư
Phật lịch: 2541 – 1997
Lời Nói Đầu
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn vào năm 1944, đến năm 1950 thì hoàn tất.
Nay, với mong muốn để nhiều người có cơ hội được đọc bộ kinh này, vì muốn được sự liễu ngộ Phật Đạo mà không đọc đến bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông thì khó bề được mỹ mãn. Nên chúng tôi, chúng đệ tử Tây Tạng Tự đời thứ ba, sau khi được sự chấp thuận của Thầy Bổn Sư, Hòa Thượng Thượng Tịch Hạ Chiếu, Nhị Tổ Tây Tạng Tự, đã biên tập lại bản dịch của Đức Sơ Tổ Thubten Osall Lama theo ngữ văn đương thời.
Trong công tác biên tập này, chúng tôi xin biết ơn chư tôn đức đã dịch kinh Lăng Nghiêm và các kinh khác sang Việt văn. Nhờ công trình của quí vị mà chúng tôi có được những danh từ chính xác, những chỉ dẫn bổ ích hỗ trợ cho công việc vốn khó khăn và quá sức chúng tôi.
Chúng tôi xin sám hối với chư Tổ và quí độc giả về những lỗi lầm ắt có trong việc giản lược một số chú thích và biên tập lại bản dịch nguyên được Ngài Thubten Osall Lama trong Định, Huệ viết ra. Ngưỡng mong nhận được những chỉ giáo quí báu của các bậc thiện tri thức.
Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh đều tròn thành Phật Đạo.
Chúng đệ tử đời thứ ba Tây Tạng Tự.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
TIỂU SỬ NGÀI THUBTEN OSALL LAMA
NHẪN TẾ THIỀN SƯ
Ngài sanh ngày Rằm tháng Bảy năm Kỷ Sửu (1888), tại làng An Thạnh thuộc Búng - Lái Thiêu Tỉnh Bình Dương, trong một gia đình khá giả.
Từ thơ ấu Ngài đã thọ quy y với Hòa Thượng trụ trì Chùa Sắc Tứ Thiên Tôn Tự (ở Búng), được đặt pháp danh Nhẫn Tế. Sau đó, Ngài thọ giới cụ túc với Hòa Thượng Thiên Thai (ở Bà Rịa) làm chủ Giới Đàn, được đặt pháp hiệu Minh Tịnh.
Trải qua thời gian, phần lớn là tự tu, thấy không thỏa mãn chí nguyện, Ngài lên đường đi Ấn Độ tầm sư học đạo.
Tháng Tư năm Ất Hợi (1935), Ngài đến Ấn Độ. Trong thời gian trên đất Ấn, Ngài tùy thuận phong tục, đắp y theo xứ Sri Lan Ka. Ở Ấn Độ, Ngài cũng không thấy thỏa mãn, lại muốn sang Tây Tạng học hỏi.
Ngài được một vị Lama pháp danh Gava Samden, từ Tây Tạng sang cùng ba đệ tử là Lama Chamba Choundouss, Lama Ise và Lama Isess qua Ấn Độ rước Ngài về Tây Tạng. Do được thông báo, nên qua các trạm dẫn vào Tây Tạng Ngài đều được nghinh tiếp rất niềm nở và trọng đãi.

Ngài đến Lhasa vào tháng Sáu năm 1936.
Tại Tây Tạng, Ngài cầu pháp với Lama Quốc Vương và dự cuộc thi tuyển toàn quốc, chỉ có hai người được tuyển chọn ứng thí: một người Tây Tạng và người còn lại là Ngài, người Việt Nam. Khi đoạn dây chỉ bện màu đỏ thắt quanh cổ Ngài xiết lại, Ngài vẫn bình thản nhìn. Chỉ có Ngài qua được cuộc khảo thí.
Sau một trăm ngày ở Tây Tạng, Ngài được Đại Thượng Tọa Lama Quốc Vương ngự ý ban cho pháp danh THUBTEN OSALL LAMA và ấn chứng sở đắc Pháp Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự, Trực Chỉ Chơn Tâm Kiến Tánh Lập Địa Thành Phật tại triều đình nước Tây Tạng.
Dòng Tổ Sư Thiền đã dứt vào thời Đức Lục Tổ Huệ Năng nay lại được khơi nối lại ở Việt Nam từ ngày đó.
Ngài trở về Việt Nam ngày 20 tháng 6 năm 1937.
Cuộc hành trình cùng các hình ảnh được Ngài ghi chép cẩn thận trong nhật ký còn lưu lại tại Chùa Tây Tạng - Bình Dương.
Về Việt Nam, Ngài lập Chùa Thiên Chơn (ở Búng - Lái Thiêu). Sau đó, lại xây dựng Chùa Tây Tạng hiện nay tại Bình Dương.
Ngài thị tịch ngày 17 tháng Năm năm Tân Mão (1951) tại Chùa Tây Tạng, thọ 63 tuổi.
Vị kế thế Ngài là Hoà Thượng Thượng Tịch Hạ Chiếu hiện trụ trì Chùa Tây Tạng - Bình Dương.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN TỰA
DUYÊN KHỞI CỦA KINH LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Đề tựa: Núi Nam Nhạc, Quan Trương Kim Giản tên là Tăng Phụng Nghi, Thuấn Trưng Phụ.
Xưa, Ngài Thiên Thai Trí Giả theo học Đạo thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc, đắc Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên thông suốt. Đến khi Ngài giải thích ý nghĩa sáu Căn trong sạch trong kinh Pháp Hoa thì trầm ngâm rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với Ngài: Chỉ có kinh Thủ Lăng Nghiêm là nói rõ ràng công đức của sáu Căn, đủ để y chứng. Từ đó, Ngài Trí Giả khao khát ngưỡng mộ. Suốt mười sáu năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây lễ bái. Ở phía trái chùa Thiên Thai ở núi Nam Nhạc vẫn còn Đài Kinh. Sau Ngài hơn một trăm năm, kinh Lăng Nghiêm mới vào Trung Quốc.
Kinh do Tể Tướng Phòng Dung ghi chép, văn tự tao nhã, bởi thế các bậc học sĩ đại phu đều tụng kinh này. Tôi từng ba lần đến Bái Kinh Đài, lần nào cũng bồi hồi chẳng muốn về, thầm than:
- Người xưa ngưỡng mộ kinh này hơn mười mấy năm mà chẳng được thấy. Nay Lăng Nghiêm bày đầy thì người ta lại chẳng hề xem! Tại sao thế?
Nhơn đó, tôi bèn phát tâm viết bộ Lăng Nghiêm lên đá, thuê thợ chạm rồi xếp thành một tòa thạch thất, khiến người đến viếng Bái Kinh Đài sẽ đọc được mà đều nói: Kinh đã đến đây rồi! Như là vì Ngài Trí Giả mà bổ sung cho một sự thiếu sót. Vừa cầm bút định viết, chợt nghĩ: Chỗ ta viết đây là chữ, chẳng phải là nghĩa vậy!
Ngài Trí Giả mong bộ Kinh này đến đây là mong người người hiểu nghĩa của Kinh. Như Ngài Huyền Sa Sư Bị, nhân đọc Lăng Nghiêm mà phát minh tâm yếu, đó là thâm nhập vào nghĩa vậy. Cho đến thiền sư Linh Nham An, Trường Thủy Tuyền, Trúc Am Khuê, Hoàng Long Nam, Thiệu Long An Dân... đều do Lăng Nghiêm mà ngộ. Như vậy là các Ngài đã không cô phụ sự truyền sang của bộ kinh này. Nếu theo văn mà giải nghĩa, chú thích câu chữ, đến mấy mươi nhà mà nghĩa kinh càng ngày càng xa, đó là lỗi lầm do chẳng cầu ở tâm mình. Nếu tỏ ngộ tự tâm, thì tuy là kinh này chưa đến, mà chỗ y giáo lập nghĩa của Ngài Trí Giả, mỗi mỗi đều hợp với Lăng Nghiêm. Không ngộ được tự tâm, tuy là có kinh Lăng Nghiêm trước mặt, thì cũng như kinh ở tại Ấn vậy. Tức là kinh điển đầy nhà mà nào có ích! Việc nhà của các thiền sư là quét sạch văn tự kiến giải cho là chẳng đủ để sùng thượng, thật có lý lắm thay! Nhưng khi tiếp dẫn hàng sơ cơ, xuất lời thổ khí, lời lẽ ý tứ thật tợ Lăng Nghiêm. Cho đến sự phát minh hướng thượng, chứng nhập Bồ Đề, thì cùng với hai mươi lăm chỗ chứng viên thông, cơ duyên không khác. Tức là chẳng tụng Lăng Nghiêm, mà Lăng Nghiêm đã sẵn đủ hiện giờ. Tức là Lăng Nghiêm chưa đến cõi này, mà cõi này chẳng phải là chưa có Lăng Nghiêm.
Tôi chẳng biết tự lượng sức, góp khắp lời của Tông Môn, phối hợp vào kinh văn. Hoặc để thầm hợp, hoặc để cùng thấy, hoặc suy rộng ý kinh, hoặc bày tỏ chỗ chưa bày tỏ. Tôi cũng không ngờ mình làm nổi. Trong khoảng trời đất làm sao có được thứ nghị luận này. Âu cũng do túc nguyện nhiều đời vậy.
Đây là tôi nhờ các vị Lão Túc để làm rõ nghĩa kinh chứ chẳng phải tự do tôi, và lấy Thiền Tông để soi sáng kinh chớ chẳng phải lấy văn tự kiến giải mà giảng. Bèn đặt tên là Tông Thông. Tông Thông cùng với Thuyết Thông. Phải tự đắc Bản Tâm thì mới cùng với các bậc Lão Túc mặc áo gặp nhau. Chẳng những một hội Lăng Nghiêm nghiễm nhiên chưa tan, mà Ngài Trí Giả đến nay cũng vẫn còn đó.
Bài văn tán ngợi rằng:
Sáu vạn ba ngàn lời mười trang,
Giáo, Hạnh, Lý, Không, Giả, Trung quán.
Viên thông hoa tạng Tín Hạnh Giải,
Chứng rồi Định Huệ xứ Niết Bàn.
Phá Vọng hiển Chân, Chân Nhất thật,
Phản văn nung Ấm, Ấm tiêu tan.
Tội lỗi vô minh mười phương ngục,
Tội ấy băng tiêu, tọa Phật tràng.
Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Thánh Hiền Tăng


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

QUYỂN I
ĐẠI PHẬT ĐẢNH, NHƯ LAI MẬT NHÂN, TU CHỨNG LIỄU NGHĨA, CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH, KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG.
Đời Đường, Ngài Bát Lạt Mật Đế, sa môn xứ Thiên Trúc, dịch; Ngài Di Già Thích Ca, Sa môn xứ Ô Trường, dịch ngữ. Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới đệ tử chép. Đời Minh, Bồ Tát Giới đệ tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi, Tông Thông. Thông rằng: Kinh này tại sao lại đặt tên là Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm? Kinh chép:
- Khi ấy, Đức Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử từ trong đại chúng, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật mà thưa rằng:
- Phải gọi kinh này tên gì? Tôi cùng với chúng sanh làm thế nào phụng trì?
Phật dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Kinh này tên Đại Phật Đảnh, Tát Đát Đa Bát Đát Ra (Bạch Tán Cái), ấn báu vô thượng, Hải Nhãn trong sạch của mười phương Như Lai. Cũng gọi là cứu hộ người thân, độ thoát A Nan, và Tánh Tỳ kheo ni ở trong hội này, đắc tâm Bồ Đề, bước vào biển Biến Trí. Cũng gọi là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa. Cũng gọi là Đại Phương Quảng, Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú. Cũng gọi là Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm. Ông nên thọ trì.
Đoạn kinh trên gồm nhiều nghĩa, chỉ cần ba chữ Đại Phật Đảnh là bao gồm hết. Bởi vì Phật Đảnh thần chú, tức là mười phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú, tức là Quán Đảnh Chương Cú, tức là độ thoát A Nan và Tỳ kheo ni Tánh, do đó khỏi lập lại. Chú này là Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra, dịch là Đại Bạch Tán Cái, là cái Lọng Trắng Lớn Che Trùm. Ròng trắng phau trong sạch, trùm che hết thảy, nên gọi là lớn. Đại Phật Đảnh thần chú này, chẳng thể nghĩ bàn, mới gọi là Nhân Địa Bí Mật của Như Lai, cái Liễu Nghĩa của Tu Chứng. Vạn Hạnh của Bồ Tát do đây mà sẵn đủ, nên cả thảy rốt ráo bền chắc vậy. Pháp có thể Tiệm mà không thể Đốn, thì không thể gọi là Đại. Có thể Đốn mà không thể Viên, thì cũng không gọi là Đại (lớn) được. Nay nói là Mật, là Liễu, tức là đã gồm nghĩa Đốn. Nói là Tu Chứng, nói là Vạn Hạnh là ngầm nghĩa Viên. Duy cái pháp môn Viên Đốn nầy, cùng với Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, không khác. Từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng cho đến Diệu Giác là đã bao gồm trong Hoa Nghiêm; còn Nhĩ Căn Viên Thông trọn cùng phẩm Phổ Môn tương ứng. Gồm đủ chỉ thú của hai bộ kinh trên, kinh Lăng Nghiêm thật rộng lớn biết bao!
Chưa ngộ, thì chuyển: Cái chẳng có Sanh Diệt thành ra: Cái Sanh Diệt, tức chẳng phải Liễu Nghĩa. Ngộ rồi, thì chuyển: Cái Sanh Diệt thành ra: Cái Chẳng Có Sanh Diệt, tức là: Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố. Cho nên, một đường đi lên , không ngộ thì không được. Thế thì Chú và Ngộ liên quan thế nào, Ngộ và Chú quan hệ với nhau ra sao, mà đều cũng gọi là Đại Phật Đảnh? Chú không thể nghĩ bàn, Ngộ cũng không thể nghĩ bàn. Chú tức là cảnh giới của Ngộ, Ngộ tức là cảnh giới của Chú. Đây là chỗ: Ngôn Ngữ Đạo Đoạn, Tâm Hành Xứ Tuyệt, thấy do lìa cái Thấy, thì cái Thấy là siêu việt. Cho nên giữ cái Phật Đảnh, lìa cái Tướng Thấy của mình là vậy. Các dòng giống của Phật Đảnh, một phen vượt lên nhập thẳng vào, đó là pháp môn cực tôn cực quý vậy. Hiệp Luận đặt tên là Tôn Đảnh vì lẽ này.

Có vị tăng hỏi Ngài Hoàng Bá rằng:

- Vô Biên Thân Bồ Tát vì sao chẳng thấy Đảnh Tướng của Như Lai?

Ngài Bá đáp:

- Thật không thể thấy. Vì sao thế? Vô Biên Thân Bồ Tát tức là Như Lai, không thể trở lại thấy. Chỉ cần ông không tạo ra cái Phật Kiến thì không rơi vào Phật Biên. Không tạo ra cái Thấy Chúng Sanh thì không lạc vào giới hạn chúng sanh. Không gây ra cái Thấy Có thì không lạc vào giới hạn của cái Có. Không tạo ra cái Thấy Không thì không rơi vào giới hạn của cái Không. Không tạo ra cái Thấy của phàm phu thì không rơi vào giới hạn của phàm phu. Không tạo ra cái Thấy của Thánh thì không rơi vào giới hạn của Thánh. Chỉ "Không" tất cả mọi cái Thấy, tức là Vô Biên Thân. Nếu có chỗ Thấy, tức là ngoại đạo. Ngoại đạo thì ham các cái Thấy. Bồ Tát nơi mọi cái Thấy mà chẳng động. Như Lai là nghĩa Như của tất cả các Pháp, nên nói: Di Lặc cũng là Như. Như tức là không có Sanh ra, Như tức là không có Diệt mất. Như tức là không có Thấy, Như tức là không có Nghe. "Đảnh" tức là Viên (tròn), cũng không có cái thấy Viên, nên chẳng rơi vào biên giới của Viên. Bởi thế, thân Phật là "Vô Vi", không rơi vào giới hạn. Tạm lấy Hư Không làm thí dụ. Tròn đầy như Hư Không rộng lớn, không thiếu không dư. Hãy nhàn nhã vô sự, chớ gắng gượng biện biệt cảnh giới giác ngộ, biện biệt thì thành Thức.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Bá Trượng:

- Bồ Tát Vô Biên Thân không thấy Đảnh Tướng của Như Lai là vì sao?

Tổ Trượng rằng:

- Vì gây ra cái Thấy Hữu Biên, cái Thấy Vô Biên, nên chẳng thấy được Đảnh Tướng Như Lai. Chỉ như bây giờ đây trọn không có cả thảy cái Thấy Hữu Vô, cũng không phải là không có cái Thấy, thì đó là thấy Đảnh Tướng.

Xem hai vị tôn túc nói ra nghĩa Phật Đảnh, thật như viên ngọc tròn lăn trên bàn. Nếu biết chỗ ấy mới cho là trên cửa Đảnh, có được: Con Mắt Lẻ. Đã nói là Như Lai Mật Nhân, tức chẳng cậy mượn sự Tu Chứng. Lại nói:

- Tu Chứng Liễu Nghĩa là để phân biệt với Chẳng Có Liễu Nghĩa, vậy. Như Lai, ấy là nói về quả vậy.

Kinh Kim Cang:

- Nếu có người nói: Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm, thì người ấy chẳng hiểu nghĩa chỗ ta nói. Vì sao thế? Như Lai là: Không Từ Chỗ Nào Đến, Cũng Không Đi Về Đâu, nên gọi là Như Lai.

- Đến không từ chỗ nào, đi không về đâu, quả là vật gì?

Thế mới gọi là Mật vậy. Phật Đảnh Thần Chú là Mật Ngữ của Như Lai, thì hai cái Mật (Mật Ngữ và Như Lai) đó không phải là hai. Lấy cái Mật này làm Nhân, tức lấy cái Mật ấy đắc quả. Như đóa bông sen, nhân quả đồng thời sẵn đủ. Dùng cái này mà tu, thì tu mà không tu. Dùng cái này để chứng, thì chứng mà không chứng.

Kinh nói:

- Nào mượn sự cực nhọc tu chứng.

Đây tức là ý chỉ của Liễu Nghĩa. Nếu không được như thế là vì chưa liễu ngộ vậy.

Xưa, Huệ Minh đuổi kịp Đức Lục Tổ để giành lấy y bát.

Tổ dạy:

- Ông đã vì Pháp mà đến, hãy an dừng các duyên, không sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà nói.

Ông Huệ Minh im lặng hồi lâu, Tổ nói:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay khi ấy, là Bản Lai Diện Mục của Minh Thượng Tọa.

Ông Huệ Minh nghe xong, đại ngộ.

Lại hỏi:

- Ngoài lời mật, ý mật ấy, còn cái ý mật nào không?

Tổ đáp:

- Đã nói cùng ông, tức chẳng phải Mật. Nếu ông soi trở lại, thì Mật ở tại bên ông.

Thầy Minh thưa:

- Tôi mặc dầu ở Huỳnh Mai, mà thật chưa tỏ ngộ được mặt mũi của mình. Nay nhờ ơn chỉ bày, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Nay hành giả tức là thầy của tôi vậy.

Tổ dạy:

- Ông đã như vậy, thì nay tôi và ông cùng một thầy Huỳnh Mai. Hãy khéo tự hộ trì.

Ngài Hoài Nhượng ban đầu ra mắt Đức Trung Sơn An thiền sư, hỏi:

- Thế nào là ý Tổ Sư từ phương Tây đến?

Tổ An nói:

- Sao không hỏi cái ý của chính ông?

Ngài bèn hỏi:

- Thế nào là ý của chính mình?

Tổ Sơn đáp:

- Cần quán xét cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng.

Hỏi:

- Như thế nào là cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng?

Tổ Sơn dùng mắt mở, nhắm chỉ bày đó.

Sư Nhượng không lãnh hội được. Tổ Sơn bèn bảo Ngài ra mắt Đức Lục Tổ.

Tổ hỏi:

- Từ đâu đến?

Sư Nhượng đáp:

- Tung Sơn.

Tổ hỏi:

- Vật gì đó? Đến thế nào?

Sư chẳng đáp dược. Trải qua tám năm, mới bạch với Tổ rằng:

- Tôi đã có chỗ am hiểu.

Tổ hỏi:

- Như thế nào?

Ngài đáp:

- Nói giống như một vật là chẳng trúng!

Tổ hỏi:

- Lại có thể tu chứng chăng?

Đáp rằng:

- Tu chứng thì chẳng phải là không, mà ô nhiễm thì chẳng thể được.

Tổ rằng:

- Hay lắm! Cái chẳng có ô nhiễm ấy, là chỗ hộ niệm của chư Phật. Ông đã y vậy, ta cũng y vậy.

Như hai vị tôn túc ấy, khế hợp sâu xa cái Mật Ý, được Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy.

Sau, có vị sư hỏi Tổ Bá Trượng:

- Trước đến giờ, chư Tổ đều có Mật Ngữ trao truyền cho nhau là thế nào?

Tổ đáp:

- Không có lời Mật. Như Lai không có Bí Mật Tạng. Chỉ như bây giờ soi tỏ ý nghĩa cho rõ ràng, tìm kiếm hình tướng, rõ là bất khả đắc, đó là Mật Ngữ. Từ bậc Tu Đà Hoàn (Nhập Lưu) trở lên cho đến Thập Địa, bất quá chỉ có Chữ và Lời (Ngữ Cú), còn là thuộc về pháp Trần Cấu hết thảy. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều nằm trong phiền não. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều thuộc về Bất Liễu Nghĩa. Chỉ có lời nói, tức chẳng được chấp nhận vậy. Liễu Nghĩa Giáo đều chẳng phải là gì hết thảy (Phi), thì còn tìm kiếm Mật Ngữ nào?

Theo chỗ thấy của Tổ Bá Trượng, thì một chữ Mật cũng phải mửa ra luôn, Liễu Nghĩa Giáo cũng chẳng lập, mới có thể gọi là hướng lên ngàn Phật Đảnh mà đi.

Các vị Bồ Tát muôn Hạnh chưa lìa tu chứng thì sao lại gọi là Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố? Sở dĩ như vậy vì các Bồ Tát chưa tới địa vị Quán Đảnh, phải có tu, có chứng. Đến địa vị Quán Đảnh rồi, tức là siêu nhập đồng đẳng bậc Diệu Giác, thì có cái gì tu chứng? Các Hành tuy vô thường, nhưng từ trong Diệu Giác lưu xuất ra tất cả sự pháp, đương xứ tịch diệt, nên gọi là Rốt Ráo Kiên Cố.

Kinh nói:

- Có cái Tam Ma Địa (Chánh Định), gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, sẵn đủ muôn Hạnh. Mười phương Như Lai do một cửa này mà siêu xuất, đây là con đường Diệu Trang Nghiêm.

Tam Ma Đề này là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, lối Diệu Trang Nghiêm sẵn đủ muôn Hạnh, chẳng phải rời lìa muôn Hạnh mà riêng có cái gọi là Định. Tất cả đều Định, nên gọi là tất cả sự Rốt Ráo Kiên Cố.

Đức Phó Đại Sĩ, ngày thì kinh doanh gây tạo, đêm thì hành Đạo. Thấy Đức Thích Ca, Đức Kim Túc, Đức Định Quang ba vị Phật phóng quang phủ lên mình Ngài Đại Sĩ mới nói: Ta được Định Thủ Lăng Nghiêm. Thuở đó, kinh này chưa đến mà tên Định đã nêu, lạ lùng thay.

Tứ Tổ Đạo Tín dạy Ngài Lại Dung ở núi Ngưu Đầu rằng:

- Trăm ngàn pháp môn đều quy về Tâm, hằng sa Diệu Đức gồm tại nguồn Tâm. Tất cả Giới Môn, Định Môn, Huệ Môn, thần thông biến hóa đều tự sẵn đủ, chẳng rời tâm ông. Hết thảy Phiền Não, Nghiệp Chướng xưa nay rỗng rang vắng lặng. Hết thảy Nhân Quả đều như mộng huyễn. Chẳng có ba cõi để lìa, không có Bồ Đề nào để tìm cầu. Người cùng chẳng phải người, Tánh Tướng bình đẳng. Đại Đạo rỗng suốt, tuyệt nghĩ, tuyệt lo. Cái Pháp như thế, ông nay đã được, tuyệt không thiếu hụt, cùng Phật không khác, nào có Pháp nào khác nữa. Ông chỉ mặc dùng tự tại, chớ khởi Quán Hạnh, cũng chẳng lóng Tâm, chẳng khởi Tham Sân, chẳng giữ lo buồn, thênh thang vô ngại, mặc ý dọc ngang. Chẳng làm các điều thiện, không gây các điều ác. Đi, đứng, nằm, ngồi, chạm mắt gặp duyên, thảy đều là Diệu Dụng của Phật. Vui sướng không lo nên gọi là Phật.

Được nghe thế, Ngài Lại Dung mở ra một chi phái, gọi là: Quán Đảnh Chương Cú.

Ngài Pháp Nhãn dạy:

- Tu hành trải qua ba đời sáu chục kiếp, bốn đời một trăm kiếp hay tăng kỳ kiếp cho đến thành quả mà cổ nhơn còn nói là chẳng bằng một niệm duyên khởi Vô Sanh, siêu quá hàng Tam Thừa Quyền Học.

Nên chi nói rằng:

- Gảy móng tay mà viên thành tám vạn Pháp Môn, trong sát na dứt hết ba a tăng kỳ kiếp. Trong Thiền Tông quả có chuyện kỳ đặc đó, há phải vạn hạnh đầy đủ, rồi sau mới đắc Định Thủ Lăng Nghiêm ư?

Kinh là Thường Đạo vậy. Cuốn Thuyết Văn Giải Tự viết:

- Dệt vải có sợi dọc (kinh), sợi ngang (vĩ): sợi dọc thì thường hằng, mà sợi ngang thì thay đổi. Kinh này do Ngài Long Thọ ở dưới Long Cung mặc tụng đem lên. Vua Ngũ Thiên trân trọng giữ kín chẳng có truyền ra. Há chẳng biết rằng quyển kinh này người người sẵn có, đâu có ai không! Thế mới là Thường Đạo, nào phải là bí mật.

Có vị tăng hỏi Ngài Thủ Sơn:

- Tất cả Chư Phật đều do kinh này mà có ra. Thế nào là kinh này?

Tổ Sơn đáp:

- Nói nhỏ! Nói nhỏ!

Vị tăng hỏi:

- Thọ trì thế nào?

Tổ Sơn rằng:

- Chẳng nhiễm ô.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Nước chảy Côn Luân, núi nổi mây,
Người đến, tiều ngư chẳng có hay.
Nếu biết núi cao, sông tràn nước,
Ắt chẳng quăng rìu với bỏ dây.

Dịch:
Thủy xuất Côn Luân, sơn khởi vân,
Điếu nhân, tiều phụ muội lai nhân.
Chỉ tri hồng lãng, nham loan khoát,
Bất khẳng phao ty khí phụ cân.

Tổ Dược Sơn bình thường không cho người ta xem kinh. Có lần tự Ngài xem kinh. Một vị tăng hỏi:

- Hòa Thượng bình thường không cho người xem kinh, sao Hòa Thượng lại xem?

Tổ Sơn rằng:

- Ta chỉ cần che mắt.

Vị tăng hỏi:

- Tôi bắt chước Hòa Thượng được không?

Tổ Sơn nói:

- Ông muốn xem thì phải suốt qua tấm da trâu đã.

Cho nên, rõ được chỗ che mắt này, thì mới được cái Diệu của sự Thọ Trì. Mà có xuyên thủng mới chẳng nhiễm ô vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

QUYỂN I
ĐẠI PHẬT ĐẢNH, NHƯ LAI MẬT NHÂN, TU CHỨNG LIỄU NGHĨA, CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH, KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG.
Đời Đường, Ngài Bát Lạt Mật Đế, sa môn xứ Thiên Trúc, dịch; Ngài Di Già Thích Ca, Sa môn xứ Ô Trường, dịch ngữ. Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới đệ tử chép. Đời Minh, Bồ Tát Giới đệ tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi, Tông Thông. Thông rằng: Kinh này tại sao lại đặt tên là Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm? Kinh chép:
- Khi ấy, Đức Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử từ trong đại chúng, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật mà thưa rằng:
- Phải gọi kinh này tên gì? Tôi cùng với chúng sanh làm thế nào phụng trì?
Phật dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Kinh này tên Đại Phật Đảnh, Tát Đát Đa Bát Đát Ra (Bạch Tán Cái), ấn báu vô thượng, Hải Nhãn trong sạch của mười phương Như Lai. Cũng gọi là cứu hộ người thân, độ thoát A Nan, và Tánh Tỳ kheo ni ở trong hội này, đắc tâm Bồ Đề, bước vào biển Biến Trí. Cũng gọi là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa. Cũng gọi là Đại Phương Quảng, Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú. Cũng gọi là Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm. Ông nên thọ trì.
Đoạn kinh trên gồm nhiều nghĩa, chỉ cần ba chữ Đại Phật Đảnh là bao gồm hết. Bởi vì Phật Đảnh thần chú, tức là mười phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú, tức là Quán Đảnh Chương Cú, tức là độ thoát A Nan và Tỳ kheo ni Tánh, do đó khỏi lập lại. Chú này là Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra, dịch là Đại Bạch Tán Cái, là cái Lọng Trắng Lớn Che Trùm. Ròng trắng phau trong sạch, trùm che hết thảy, nên gọi là lớn. Đại Phật Đảnh thần chú này, chẳng thể nghĩ bàn, mới gọi là Nhân Địa Bí Mật của Như Lai, cái Liễu Nghĩa của Tu Chứng. Vạn Hạnh của Bồ Tát do đây mà sẵn đủ, nên cả thảy rốt ráo bền chắc vậy. Pháp có thể Tiệm mà không thể Đốn, thì không thể gọi là Đại. Có thể Đốn mà không thể Viên, thì cũng không gọi là Đại (lớn) được. Nay nói là Mật, là Liễu, tức là đã gồm nghĩa Đốn. Nói là Tu Chứng, nói là Vạn Hạnh là ngầm nghĩa Viên. Duy cái pháp môn Viên Đốn nầy, cùng với Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, không khác. Từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng cho đến Diệu Giác là đã bao gồm trong Hoa Nghiêm; còn Nhĩ Căn Viên Thông trọn cùng phẩm Phổ Môn tương ứng. Gồm đủ chỉ thú của hai bộ kinh trên, kinh Lăng Nghiêm thật rộng lớn biết bao!
Chưa ngộ, thì chuyển: Cái chẳng có Sanh Diệt thành ra: Cái Sanh Diệt, tức chẳng phải Liễu Nghĩa. Ngộ rồi, thì chuyển: Cái Sanh Diệt thành ra: Cái Chẳng Có Sanh Diệt, tức là: Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố. Cho nên, một đường đi lên , không ngộ thì không được. Thế thì Chú và Ngộ liên quan thế nào, Ngộ và Chú quan hệ với nhau ra sao, mà đều cũng gọi là Đại Phật Đảnh? Chú không thể nghĩ bàn, Ngộ cũng không thể nghĩ bàn. Chú tức là cảnh giới của Ngộ, Ngộ tức là cảnh giới của Chú. Đây là chỗ: Ngôn Ngữ Đạo Đoạn, Tâm Hành Xứ Tuyệt, thấy do lìa cái Thấy, thì cái Thấy là siêu việt. Cho nên giữ cái Phật Đảnh, lìa cái Tướng Thấy của mình là vậy. Các dòng giống của Phật Đảnh, một phen vượt lên nhập thẳng vào, đó là pháp môn cực tôn cực quý vậy. Hiệp Luận đặt tên là Tôn Đảnh vì lẽ này.

Có vị tăng hỏi Ngài Hoàng Bá rằng:

- Vô Biên Thân Bồ Tát vì sao chẳng thấy Đảnh Tướng của Như Lai?

Ngài Bá đáp:

- Thật không thể thấy. Vì sao thế? Vô Biên Thân Bồ Tát tức là Như Lai, không thể trở lại thấy. Chỉ cần ông không tạo ra cái Phật Kiến thì không rơi vào Phật Biên. Không tạo ra cái Thấy Chúng Sanh thì không lạc vào giới hạn chúng sanh. Không gây ra cái Thấy Có thì không lạc vào giới hạn của cái Có. Không tạo ra cái Thấy Không thì không rơi vào giới hạn của cái Không. Không tạo ra cái Thấy của phàm phu thì không rơi vào giới hạn của phàm phu. Không tạo ra cái Thấy của Thánh thì không rơi vào giới hạn của Thánh. Chỉ "Không" tất cả mọi cái Thấy, tức là Vô Biên Thân. Nếu có chỗ Thấy, tức là ngoại đạo. Ngoại đạo thì ham các cái Thấy. Bồ Tát nơi mọi cái Thấy mà chẳng động. Như Lai là nghĩa Như của tất cả các Pháp, nên nói: Di Lặc cũng là Như. Như tức là không có Sanh ra, Như tức là không có Diệt mất. Như tức là không có Thấy, Như tức là không có Nghe. "Đảnh" tức là Viên (tròn), cũng không có cái thấy Viên, nên chẳng rơi vào biên giới của Viên. Bởi thế, thân Phật là "Vô Vi", không rơi vào giới hạn. Tạm lấy Hư Không làm thí dụ. Tròn đầy như Hư Không rộng lớn, không thiếu không dư. Hãy nhàn nhã vô sự, chớ gắng gượng biện biệt cảnh giới giác ngộ, biện biệt thì thành Thức.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Bá Trượng:

- Bồ Tát Vô Biên Thân không thấy Đảnh Tướng của Như Lai là vì sao?

Tổ Trượng rằng:

- Vì gây ra cái Thấy Hữu Biên, cái Thấy Vô Biên, nên chẳng thấy được Đảnh Tướng Như Lai. Chỉ như bây giờ đây trọn không có cả thảy cái Thấy Hữu Vô, cũng không phải là không có cái Thấy, thì đó là thấy Đảnh Tướng.

Xem hai vị tôn túc nói ra nghĩa Phật Đảnh, thật như viên ngọc tròn lăn trên bàn. Nếu biết chỗ ấy mới cho là trên cửa Đảnh, có được: Con Mắt Lẻ. Đã nói là Như Lai Mật Nhân, tức chẳng cậy mượn sự Tu Chứng. Lại nói:

- Tu Chứng Liễu Nghĩa là để phân biệt với Chẳng Có Liễu Nghĩa, vậy. Như Lai, ấy là nói về quả vậy.

Kinh Kim Cang:

- Nếu có người nói: Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm, thì người ấy chẳng hiểu nghĩa chỗ ta nói. Vì sao thế? Như Lai là: Không Từ Chỗ Nào Đến, Cũng Không Đi Về Đâu, nên gọi là Như Lai.

- Đến không từ chỗ nào, đi không về đâu, quả là vật gì?

Thế mới gọi là Mật vậy. Phật Đảnh Thần Chú là Mật Ngữ của Như Lai, thì hai cái Mật (Mật Ngữ và Như Lai) đó không phải là hai. Lấy cái Mật này làm Nhân, tức lấy cái Mật ấy đắc quả. Như đóa bông sen, nhân quả đồng thời sẵn đủ. Dùng cái này mà tu, thì tu mà không tu. Dùng cái này để chứng, thì chứng mà không chứng.

Kinh nói:

- Nào mượn sự cực nhọc tu chứng.

Đây tức là ý chỉ của Liễu Nghĩa. Nếu không được như thế là vì chưa liễu ngộ vậy.

Xưa, Huệ Minh đuổi kịp Đức Lục Tổ để giành lấy y bát.

Tổ dạy:

- Ông đã vì Pháp mà đến, hãy an dừng các duyên, không sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà nói.

Ông Huệ Minh im lặng hồi lâu, Tổ nói:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay khi ấy, là Bản Lai Diện Mục của Minh Thượng Tọa.

Ông Huệ Minh nghe xong, đại ngộ.

Lại hỏi:

- Ngoài lời mật, ý mật ấy, còn cái ý mật nào không?

Tổ đáp:

- Đã nói cùng ông, tức chẳng phải Mật. Nếu ông soi trở lại, thì Mật ở tại bên ông.

Thầy Minh thưa:

- Tôi mặc dầu ở Huỳnh Mai, mà thật chưa tỏ ngộ được mặt mũi của mình. Nay nhờ ơn chỉ bày, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Nay hành giả tức là thầy của tôi vậy.

Tổ dạy:

- Ông đã như vậy, thì nay tôi và ông cùng một thầy Huỳnh Mai. Hãy khéo tự hộ trì.

Ngài Hoài Nhượng ban đầu ra mắt Đức Trung Sơn An thiền sư, hỏi:

- Thế nào là ý Tổ Sư từ phương Tây đến?

Tổ An nói:

- Sao không hỏi cái ý của chính ông?

Ngài bèn hỏi:

- Thế nào là ý của chính mình?

Tổ Sơn đáp:

- Cần quán xét cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng.

Hỏi:

- Như thế nào là cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng?

Tổ Sơn dùng mắt mở, nhắm chỉ bày đó.

Sư Nhượng không lãnh hội được. Tổ Sơn bèn bảo Ngài ra mắt Đức Lục Tổ.

Tổ hỏi:

- Từ đâu đến?

Sư Nhượng đáp:

- Tung Sơn.

Tổ hỏi:

- Vật gì đó? Đến thế nào?

Sư chẳng đáp dược. Trải qua tám năm, mới bạch với Tổ rằng:

- Tôi đã có chỗ am hiểu.

Tổ hỏi:

- Như thế nào?

Ngài đáp:

- Nói giống như một vật là chẳng trúng!

Tổ hỏi:

- Lại có thể tu chứng chăng?

Đáp rằng:

- Tu chứng thì chẳng phải là không, mà ô nhiễm thì chẳng thể được.

Tổ rằng:

- Hay lắm! Cái chẳng có ô nhiễm ấy, là chỗ hộ niệm của chư Phật. Ông đã y vậy, ta cũng y vậy.

Như hai vị tôn túc ấy, khế hợp sâu xa cái Mật Ý, được Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy.

Sau, có vị sư hỏi Tổ Bá Trượng:

- Trước đến giờ, chư Tổ đều có Mật Ngữ trao truyền cho nhau là thế nào?

Tổ đáp:

- Không có lời Mật. Như Lai không có Bí Mật Tạng. Chỉ như bây giờ soi tỏ ý nghĩa cho rõ ràng, tìm kiếm hình tướng, rõ là bất khả đắc, đó là Mật Ngữ. Từ bậc Tu Đà Hoàn (Nhập Lưu) trở lên cho đến Thập Địa, bất quá chỉ có Chữ và Lời (Ngữ Cú), còn là thuộc về pháp Trần Cấu hết thảy. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều nằm trong phiền não. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều thuộc về Bất Liễu Nghĩa. Chỉ có lời nói, tức chẳng được chấp nhận vậy. Liễu Nghĩa Giáo đều chẳng phải là gì hết thảy (Phi), thì còn tìm kiếm Mật Ngữ nào?

Theo chỗ thấy của Tổ Bá Trượng, thì một chữ Mật cũng phải mửa ra luôn, Liễu Nghĩa Giáo cũng chẳng lập, mới có thể gọi là hướng lên ngàn Phật Đảnh mà đi.

Các vị Bồ Tát muôn Hạnh chưa lìa tu chứng thì sao lại gọi là Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố? Sở dĩ như vậy vì các Bồ Tát chưa tới địa vị Quán Đảnh, phải có tu, có chứng. Đến địa vị Quán Đảnh rồi, tức là siêu nhập đồng đẳng bậc Diệu Giác, thì có cái gì tu chứng? Các Hành tuy vô thường, nhưng từ trong Diệu Giác lưu xuất ra tất cả sự pháp, đương xứ tịch diệt, nên gọi là Rốt Ráo Kiên Cố.

Kinh nói:

- Có cái Tam Ma Địa (Chánh Định), gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, sẵn đủ muôn Hạnh. Mười phương Như Lai do một cửa này mà siêu xuất, đây là con đường Diệu Trang Nghiêm.

Tam Ma Đề này là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, lối Diệu Trang Nghiêm sẵn đủ muôn Hạnh, chẳng phải rời lìa muôn Hạnh mà riêng có cái gọi là Định. Tất cả đều Định, nên gọi là tất cả sự Rốt Ráo Kiên Cố.

Đức Phó Đại Sĩ, ngày thì kinh doanh gây tạo, đêm thì hành Đạo. Thấy Đức Thích Ca, Đức Kim Túc, Đức Định Quang ba vị Phật phóng quang phủ lên mình Ngài Đại Sĩ mới nói: Ta được Định Thủ Lăng Nghiêm. Thuở đó, kinh này chưa đến mà tên Định đã nêu, lạ lùng thay.

Tứ Tổ Đạo Tín dạy Ngài Lại Dung ở núi Ngưu Đầu rằng:

- Trăm ngàn pháp môn đều quy về Tâm, hằng sa Diệu Đức gồm tại nguồn Tâm. Tất cả Giới Môn, Định Môn, Huệ Môn, thần thông biến hóa đều tự sẵn đủ, chẳng rời tâm ông. Hết thảy Phiền Não, Nghiệp Chướng xưa nay rỗng rang vắng lặng. Hết thảy Nhân Quả đều như mộng huyễn. Chẳng có ba cõi để lìa, không có Bồ Đề nào để tìm cầu. Người cùng chẳng phải người, Tánh Tướng bình đẳng. Đại Đạo rỗng suốt, tuyệt nghĩ, tuyệt lo. Cái Pháp như thế, ông nay đã được, tuyệt không thiếu hụt, cùng Phật không khác, nào có Pháp nào khác nữa. Ông chỉ mặc dùng tự tại, chớ khởi Quán Hạnh, cũng chẳng lóng Tâm, chẳng khởi Tham Sân, chẳng giữ lo buồn, thênh thang vô ngại, mặc ý dọc ngang. Chẳng làm các điều thiện, không gây các điều ác. Đi, đứng, nằm, ngồi, chạm mắt gặp duyên, thảy đều là Diệu Dụng của Phật. Vui sướng không lo nên gọi là Phật.

Được nghe thế, Ngài Lại Dung mở ra một chi phái, gọi là: Quán Đảnh Chương Cú.

Ngài Pháp Nhãn dạy:

- Tu hành trải qua ba đời sáu chục kiếp, bốn đời một trăm kiếp hay tăng kỳ kiếp cho đến thành quả mà cổ nhơn còn nói là chẳng bằng một niệm duyên khởi Vô Sanh, siêu quá hàng Tam Thừa Quyền Học.

Nên chi nói rằng:

- Gảy móng tay mà viên thành tám vạn Pháp Môn, trong sát na dứt hết ba a tăng kỳ kiếp. Trong Thiền Tông quả có chuyện kỳ đặc đó, há phải vạn hạnh đầy đủ, rồi sau mới đắc Định Thủ Lăng Nghiêm ư?

Kinh là Thường Đạo vậy. Cuốn Thuyết Văn Giải Tự viết:

- Dệt vải có sợi dọc (kinh), sợi ngang (vĩ): sợi dọc thì thường hằng, mà sợi ngang thì thay đổi. Kinh này do Ngài Long Thọ ở dưới Long Cung mặc tụng đem lên. Vua Ngũ Thiên trân trọng giữ kín chẳng có truyền ra. Há chẳng biết rằng quyển kinh này người người sẵn có, đâu có ai không! Thế mới là Thường Đạo, nào phải là bí mật.

Có vị tăng hỏi Ngài Thủ Sơn:

- Tất cả Chư Phật đều do kinh này mà có ra. Thế nào là kinh này?

Tổ Sơn đáp:

- Nói nhỏ! Nói nhỏ!

Vị tăng hỏi:

- Thọ trì thế nào?

Tổ Sơn rằng:

- Chẳng nhiễm ô.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Nước chảy Côn Luân, núi nổi mây,
Người đến, tiều ngư chẳng có hay.
Nếu biết núi cao, sông tràn nước,
Ắt chẳng quăng rìu với bỏ dây.

Dịch:
Thủy xuất Côn Luân, sơn khởi vân,
Điếu nhân, tiều phụ muội lai nhân.
Chỉ tri hồng lãng, nham loan khoát,
Bất khẳng phao ty khí phụ cân.

Tổ Dược Sơn bình thường không cho người ta xem kinh. Có lần tự Ngài xem kinh. Một vị tăng hỏi:

- Hòa Thượng bình thường không cho người xem kinh, sao Hòa Thượng lại xem?

Tổ Sơn rằng:

- Ta chỉ cần che mắt.

Vị tăng hỏi:

- Tôi bắt chước Hòa Thượng được không?

Tổ Sơn nói:

- Ông muốn xem thì phải suốt qua tấm da trâu đã.

Cho nên, rõ được chỗ che mắt này, thì mới được cái Diệu của sự Thọ Trì. Mà có xuyên thủng mới chẳng nhiễm ô vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

TỰA CHUNG

Kinh:

- Như thế, tôi được nghe, một thời Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt, cùng với chúng đại Tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc Vô Lậu Đại A La Hán.

Thông rằng: Tất cả các kinh đều mở đầu bằng: Như Thị Ngã Văn Nhất Thời. Đây là Đức A Nan tuân theo ý chỉ của Đức Phật, kết tập các kinh, trước xướng sáu chữ này, giải tan mọi nghi ngờ. Như Thị, Như Thị ấy là chỉ có thể tự tin lấy, không cần ngôn thuyết. Nếu hiểu được cái Pháp Như Thị, là chỗ phó chúc bí mật của Phật Tổ, tức là những lời lòng vòng sau này, đều là lời cước chú chua thêm vậy.

Có vị tăng vào tham lễ quốc sư Huệ Trung, sư hỏi:

- Làm sự nghiệp gì?

Tăng đáp:

- Giảng kinh Kim Cang.

Sư hỏi:

- Hai chữ đầu hết là cái gì?

Đáp:

- Như thị .

Sư hỏi:

- Đó là cái gì?

Tăng không đáp được.

Sư bảo:

- Than ôi! Vậy thì lấy gì mà giảng kinh?

Lại còn thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn hỏi một vị tòa chủ:

- Hai chữ Như Thị là tất cả khoa văn, vậy thì bản văn là làm sao?

Vị tòa chủ không đáp được.

Đức Ngũ Vân đáp thay rằng:

- Lại chia làm ba đoạn rồi.

Hãy nói chỗ Đức Ngũ Vân mở lời, là khoa văn hay là bản văn?

Chữ Tỳ Kheo có ba nghĩa: Khất Sĩ; là Phá Ác; là Bố Ma (làm cho ma sợ).

Chữ A La Hán cũng có ba nghĩa là Ứng Cúng, là Sát tặc (giết giặc), là Vô Sanh.

Đại là để phân với Tiểu.

Lậu cũng có ba loại: Vô Minh Lậu, Dục Lậu và Hữu Lậu.

Kinh nói:

- Ông thường nghe trong Luật của Ta có ba nghĩa quyết định tu hành, đó là Nhiếp Tâm làm Giới, do Giới sanh Định, nhờ Định phát Huệ. Đó là ba môn Vô Lậu Học. Cấm Răn (Giới) tức là không lọt ra cái Ham Muốn Dâm Dục (Dục Lậu), Yên Tĩnh (Định) ắt không có Phiền Não (Hữu Lậu), sáng tâm (Huệ) ắt không có Vô Minh Phiền Não. Ba món Vô Lậu này gọi là nghĩa quyết định. Tựa hồ lấy Huệ làm chỗ cực tắc.

Nên Đức Động Sơn nói với Ngài Tào Sơn rằng:

- Ở thời mạt pháp, người ta phần nhiều là Huệ Khô Khan (Càn Huệ). Để phân biệt thiệt hay giả, thì có ba loại rỉ chảy (sấm lậu): Một là, Kiến( )sấm lậu: chưa lìa phàm phu,sa vào trong biển độc. Hai là, Tình sấm lậu: vướng mắc vào thuận nghịch, chỗ thấy không được quân bình. Ba là, Ngữ sấm lậu: cứu xét chỗ huyền diệu mà mất đi Tông chỉ, sau trước Cơ Trí đều mê muội tối tăm, trí dơ lưu chuyển. Đối với ba loại này, thầy phải nên biết.

Trong cái Càn Huệ, lại chia làm ba thứ này, nếu không có con Mắt Pháp phân biệt thì không thể chiếu phá. Do đó, bậc A La Hán hồi hướng về Đại Thừa, hẳn phải tư duy quán xét lời dạy của Ngài Động Sơn, thì mới đầy đủ cái nghĩa Vô Lậu vậy.

Kinh:

- Các vị Phật Tử trụ trì, khéo vượt lên các Hữu. Ở các quốc độ, thành tựu uy nghi. Theo Phật chuyển pháp luân, kham lãnh xứng đáng di chúc của Phật. Nghiêm tịnh Giới Luật để mở rộng khuôn phép cho ba cõi. Hiện thân vô số, cứu thoát chúng sanh, tột đời vị lai, khỏi các Trần ràng buộc.

Thông rằng:

-Trụ Trì: là cái Giác Tánh Thường Trụ, (hằng còn), hay nắm giữ (trì) vạn Pháp. Đoạn kinh này chỉ mười mấy chữ, thật bao quát hết ý chỉ của cả bộ kinh.

Nói rằng:

- Khéo Vượt Lên Các Hữu, tức là Ngũ Ấm, Lục Nhập, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới, cho đến bảy Đại đều chẳng có thể làm chướng ngại, thì nghĩa Phá Vọng đã đầy đủ hết.

Nói rằng:

- Thành Tựu Uy Nghi, tức là dựng lập Đạo Tràng, ba món tiệm thứ. Năm mươi lăm địa vị, tức là con đường Bồ Đề, thì nghĩa Hiển Chơn đã đầy đủ.

Nói rằng:

- Diệu Kham Di Chúc, thì hai mươi lăm pháp môn viên thông đều chứng Tự Tánh, đồng kham thọ ký thành Phật, mà cái tông chỉ Kiến Tánh tự còn.

Nói rằng:

- Mở Rộng Khuôn Phép Trong Ba Cõi, thì bộ kinh này phù trì Giới Luật, dặn dò cẩn thận bốn Cấm Giới, Thập Thiện và chín loại Định để nêu rõ quy tắc cho ba cõi. Ngài A Nan thị hiện dâm sự để mở đầu bộ kinh là cũng vì vậy.

Nói rằng:

- Ứng Thân Vô Lượng, là dạy các vị Bồ Tát và A La Hán hiện thân trong đời mạt pháp, hóa làm đủ thứ hình dạng, cứu vớt các chúng sanh luân hồi vậy. Vì phòng ngừa cho chúng sanh đời mạt pháp khỏi các ma sự, Siêu Khỏi Các Trần Ràng Buộc, chứng đến chỗ viên thông. Thật là lời dặn dò khuôn mẫu sau chót của Như Lai vậy.

Ngài Phong Huyệt Chiểu thiền sư có lời dạy rằng:

- Nếu lập một mảy trần, dẫu nước nhà đang hưng thịnh, lão quê này cũng buồn rầu. Không lập một mảy trần, dẫu nước nhà sụp đổ, lão quê này cũng vui ca.

Ngài Tuyết Đậu dựng cây trụ trượng lên mà nói:

- Lại còn có vị tăng cùng sống cùng chết nào không? Ý chỗ lập trần là ở đó.

Tụng rằng:

- Lão tăng dạy dỗ chẳng nhướng mày. Mong cho nhà nước vững nền ngay. Mưu thần dũng tướng giờ đâu tá. Vạn dặm gió trong, chỉ tự hay.

Ngài Tuyết Đậu ở trong cửa Phật sự, chẳng bỏ một Pháp. Ngài Thiên Đồng ở nơi Thực Tướng chẳng thọ một mảy trần. Hai Pháp song hành bình đẳng, cùng một chỗ xuất ra.

Tụng rằng:
Sông Vị trắng trong thả nhợ câu,
Nào giống Di Tề chết đói đâu.
Chỉ tại mảy trần sanh lắm vẻ,
Nghiệp tốt, danh cao, khó bỏ thay.

Lại còn Tổ Trường Khánh nói rằng:

Mọi chuyện giống như ngày nay là bởi Lão Hồ có chỗ cho người ta ngưỡng vọng.

Tổ Bảo Phước nói:

- Mọi sự giống như ngày nay là vì Lão Hồ tuyệt hết mọi chỗ cho người ta ngưỡng vọng.

Ngài Thiên Đồng dạy thêm:

- Giàu, ngàn miệng ăn vẫn cho là ít. Nghèo, một thân này vẫn hận là nhiều.

Xét chỗ khai thị của các vị tôn túc, tất cả đều vì người, nào có khác với tâm cứu độ chúng sanh đời sau của Phật, Tổ. Nên sao chép lại để làm cái pháp Trụ Trì.

Kinh:

- Các vị là Đại Trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà làm Thượng Thủ. Lại có vô số các vị Bích Chi Vô Học và Sơ Tâm đồng đến chỗ Phật giảng đạo. Nhằm ngày các vị tỳ khưu mãn hạ Tự Tứ, các vị Bồ Tát từ mười phương đến, xin Phật giải quyết nghi hoặc, kính vâng Đức Từ Nghiêm, thỉnh cầu Nghĩa Thâm Mật.

Đức Như Lai trải pháp tọa, ngồi khoan thai, vì cả Pháp Hội mà tỏ bày cái mật nhiệm sâu xa. Chúng hội trong sạch, được việc chưa từng có.

Thông rằng: Đây là nói về chỗ bắt đầu của kinh. Nói là các vị Bồ Tát thỉnh cầu Mật Nghĩa, mà chẳng có nói: Cái Gì Là Mật. Nói đức Phật tỏ bày cái thâm áo, mà chẳng nói: Cái Gì Là Thâm Áo, thì làm sao chúng hội thanh tịnh lại được chỗ chưa từng có?

Xưa, Đức Thế Tôn một hôm lên tòa pháp. Đức Văn Thù bạch chùy rằng:

- Hãy xem rõ Pháp Vương Pháp. Pháp Vương Pháp như thế.

Đức Thế Tôn bèn xuống pháp tòa. Tổ Thiên Đồng tụng:

Một đoạn của nhà có thấy không,
Miên man trời đất chạy thoi nhanh.
Gấm cổ dệt thành, bao Xuân sắc,
Ngại gì tiết lộ bởi Đông Quân.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Thánh chúng đương nhiên ắt hiểu ngay,
Pháp Vương, Pháp Lệnh chẳng như đây.
Hội này mà có Thiền gia khách,
Văn Thù nào phải hạ một chùy.

Nếu đối với chỗ Đức Thế Tôn lên tòa yên ngồi mà đã rõ thông tin tức, mới thật diệu khế cái Áo Mật, mà chẳng cần nhờ đến lời lẽ phiền phức vậy.

Hàng Bích Chi, còn có hạng Sơ Phát Tâm là học trò của hàng Bích Chi.

Hưu Hạ Tự Tứ là trong Luật có dạy ba ngày ra Hạ là Mười Bốn, Mười Lăm và Mười Sáu tháng Bảy.

Kinh:

- Tiếng của Phật hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, vang khắp mười phương. Hằng sa Bồ Tát đến chốn đạo tràng, có Ngài Văn Thù Sư Lợi làm Thượng Thủ.

Thông rằng: Chim Ca Lăng Tần Già khi còn trong trứng đã đủ tiếng hay, các loài chim khác không so sánh kịp. Thí dụ cho Đốn Giáo vào ngay dòng giống Phật, không cần mượn tu tập, Tam Thừa không bì kịp. Phật dùng âm thanh này để dạy cho hàng căn cơ Đốn Ngộ.

Thuở xưa, có lần Ngài Mục Kiền Liên muốn cùng tột âm thanh của Phật, dùng hết thần lực, đi qua hằng sa cõi, đến một cõi Phật có Báo Thân rất lớn. Ngài chống trượng đi trên miệng bát cơm của chư vị cõi đó. Các đệ tử ở đấy đều thưa với đức Phật cõi đó:

- Tại sao lại có loại trùng giống hệt con người?

Đức Phật kia đáp:

- Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử của phật Thích Ca ở cõi Ta Bà. Chớ thấy hình vóc nhỏ nhoi mà xem thường!

Rồi đức Phật hỏi Ngài Mục Kiền Liên đến đây làm gì.

- Ngài trả lời là muốn cùng tột âm thanh của Phật.

Đức Phật dạy:

- Âm thanh của Phật vô tận, ông không thể cùng tột được đâu.

Ngài Mục Kiền Liên bèn trở về.

Nên nói:

- Khắp Hết Mười Phương, là đúng vậy.

Hằng sa Bồ Tát mỗi mỗi đều có chỗ ở, như những cõi kể trong kinh Hoa Nghiêm, vũ trụ vô cùng, chỗ nào mà chẳng phải là Trụ Xứ của Bồ Tát? Nay nghe âm thanh Phật, các Bồ Tát đi đến với Phật.

Văn Thù tức là Diệu Đức, để bày tỏ cái Thiệt Trí. Mở bày Đốn Giáo thì đúng là Cơ của Ngài, nên Ngài làm Thượng Thủ. Xưa, Ngài Vô Trước Văn Hỷ thiền sư đến động Kim Cương ở núi Ngũ Đài chiêm bái Đức Văn Thù. Ngài gặp một ông già đang dắt trâu đi và mời Ngài vào chùa.

Ông già gọi:

- Sa di!

Thì có một đồng tử ứng tiếng dạ, chạy ra tiếp. Ông già thả trâu đi, dắt thiền sư lên nhà khách. Nhà cửa đều chói lọi ánh vàng. Ông già ngồi lên giường, chỉ một cái đôn gấm mời Ngài ngồi.

Ông nói:

- Ông từ đâu tới?

Sư Văn Hỷ đáp:

- Phương Nam.

Ông hỏi:

- Phật Pháp ở phương Nam trụ trì thế nào?

Sư đáp:

- Đời mạt Pháp các Tỳ Kheo ít phụng trì Giới Luật.

Ông hỏi:

- Chúng nhiều ít?

Sư đáp:

- Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm.

Sư Văn Hỹ trở lại hỏi:

- Phật Pháp ở đây trụ trì thế nào?

Ông già trả lời:

- Rồng rắn lẫn lộn, phàm Thánh ở chung.

Sư hỏi:

- Chúng nhiều ít?

Ông đáp:

- Trước ba ba, sau ba ba. Ông kêu đồng tử đem trà và váng sữa lại. Sư dùng xong, tâm ý thông suốt.

Ông già cầm chén pha lê lên hỏi:

- Phương Nam có thứ này không?

Sư đáp:

- Không có.

Ông hỏi:

- Bình thường lấy gì uống trà?

Sư không đáp được.

(Tiếc thay! Đang khi ấy chỉ nên đập nát nghiến cái chén pha lê! )

Văn Hỷ thấy trời đã tối, bèn hỏi ông ở lại một đêm được chăng.

Ông già nói:

- Ông còn cái tâm chấp không thể ở lại.

Sư nói:

- Tôi đâu có tâm câu chấp.

Ông già hỏi:

- Ông đã thọ Giới chưa?

Sư đáp:

- Thọ Giới đã lâu.

Ông già nói:

- Nếu không có cái tâm chấp, thì thọ Giới để làm gì?

Sư cáo từ. Ông già bảo đồng tử tiễn Ngài về.

Ngài hỏi đồng tử:

- Trước ba ba, sau ba ba là nhiều ít?

Đồng tử gọi lớn:

- Đại Đức!

Sư ứng tiếng dạ.

Đồng tử nói:

- Đó là nhiều ít?

Sư Hỷ lại hỏi:

- Đây là chỗ nào?

Đáp rằng:

- Đây là động Kim Cương, chùa Bát Nhã.

Sư Văn Hỷ mới tỉnh ngộ ra rằng ông già tức là Văn Thù vậy. Không thể ra mắt trở lại dược nữa, bèn cúi đầu trước đồng tử, xin một lời nói để từ biệt.

Đồng tử đọc bài kệ:

Trên mặt không sân: đồ cúng dường,
Trong miệng không sân: xuất Diệu Hương.
Trong tâm không sân là châu báu,
Không dơ, không nhiễm tức Chân Thường.
Nói xong, cả người lẫn chùa đều ẩn mất.

Thầy Hỷ sau tham học với Tổ Ngưỡng Sơn, chóng ngộ tâm khế, giữ chức Điển Tòa. Khi nấu ăn, Đức Văn Thù thường hiện hình trên nồi cháo. Sư Văn Hỷ lấy cái đũa tre quậy cháo đánh mà nói rằng:

- Văn Thù tự mặc Văn Thù. Văn Hỷ tự mặc Văn Hỷ.

Đức Văn Thù bèn nói bài kệ:

Bầu đắng rễ cũng đắng,
Dưa ngọt tận cuống ngọt.
Tu hành ba đại kiếp,
Lại bị lão tăng từ (chối).
Thấu đến Trong Ấy lại còn nói có tâm câu chấp nữa ư?

Tổ Tuyết Đậu tụng rằng:

Ngàn đỉnh nhấp nhô một màu lam,
Ai là Văn Thù để đối đàm.
Nực cười Thanh Lương nhiều ít chúng,
Trước ba ba sau cũng ba ba.

Chỗ này mà thấu thoát được mới cho gặp mặt Đức Văn Thù.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

DUYÊN KHỞI CỦA KINH

Kinh:

- Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày kỵ (giỗ) phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thọ trai. Tự Ngài đứng nơi cung dịch nghinh rước Đức Như Lai, dọn bày các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ Tát. Trong thành lại có các trưởng giả, cư sĩ cùng dự lễ Trai Tăng chờ Phật đến chứng minh. Phật khiến Ngài Văn Thù phân lãnh các vị Bồ Tát và A La Hán đi đến nhà các trai chủ.

Duy có Ông A Nan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chúng. Ông về một mình, không có Thượng tọa hay A xà lê cùng đi, và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ, ông mang bình bát vào trong một thành, trên đường đi tuần tự khất thực. Ban đầu, trong lòng cầu được một người bố thí tối hậu để làm trai chủ, không kể sang hèn, đều hành tâm Từ bình đẳng. Phát tâm viên thành cho tất cả chúng sanh được vô lượng công đức.

Ông A Nan đã biết đức Phật quở ông Tu Bồ Đề và Ông Đại Ca Diếp làm bậc A La Hán, mà tâm chẳng bình đẳng. Ông kính vâng lời khai thị của Phật, lìa thoát mọi nghi báng. Đi đến bên thành, thong thả vào cửa, nghiêm chỉnh oai nghi, kính giữ phép hóa trai.

Thông rằng: Vua Ba Tư Nặc cùng các vị trưởng giả, cư sĩ đồng thời cùng dự lễ Trai Tăng, sao ân cần như vậy? Vì công đức Trai Tăng rất lợi ích. Phật có thuyết cho Ông Cấp Cô Độc về quả báo của bố thí: hoặc là bố thí nhiều mà quả báo ít, hoặc là bố thí ít mà quả báo nhiều. Cúng dường cho ngàn vị Phật, không bằng cúng dường cho một vị Tịnh Hạnh. Cho đến cúng dường trăm ngàn vị Phật không bằng cúng dường cho một Đạo Nhân Vô Tâm.

Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói rằng:

- Phật dạy: Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người giữ Ngũ Giới ăn. Cho một vạn người giữ Ngũ Giới ăn không bằng cúng dường một vị Tu Đà Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu Đà Hoàn không bằng cúng dường một vị Tư Đà Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư Đà Hàm không bằng cúng dường một vị A Na Hàm. Cúng dường một ức vị A Na Hàm không bằng cúng dường một vị A La Hán. Cúng dường mười ức vị A La Hán không bằng cúng dường một vị Bích Chi Phật. Cúng dường một trăm ức vị Bích Chi Phật không bằng cúng dường ba đời Chư Phật. Cúng dường ngàn ức ba đời Chư Phật không bằng cúng dường cho một vị Không niệm, Không Trụ, Không Tu, Không Chứng.

Đại lược hai đoạn trên tương đồng với nhau.

Có vị sư hỏi Tổ Lạc Phổ:

- Cúng dường trăm ngàn vị Phật chẳng bằng cúng dường một vị đạo nhân không tâm (Vô Tâm). Trăm ngàn chư Phật có lỗi gì? Người đạo nhân Vô Tâm có đức gì?

Tổ đáp:

- Một mảnh mây trắng qua trước hang. Biết bao chim chóc lạc ổ về.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

Thập Đắc bơ thờ không tỏ hiểu,
Hàn Sơn uể oải chẳng biết về.
Trước tiếng (thanh tiền) một câu viên âm đẹp,
Ngoài vật ba núi mảnh trăng soi.

Dịch:
Thập Đắc số dung phi giác hiểu,
Hàn Sơn lại đọa bất tư quy.
Thanh tiền nhất cú viên âm mỹ,
Vật ngoại tam sơn phiến nguyệt quy.

Câu ba: Viên Âm là tiếng vọng trải khắp mầu nhiệm, thuộc ẩn. Câu bốn là hiển.

Đây là riêng tụng về đạo nhân Vô Tâm đó vậy.

Ông Cam Chi hành giả một ngày kia vào chỗ Ngài Nam Tuyền bày Trai cúng, gặp Tổ Huỳnh Bá làm Thủ Tòa. Ông xin được bố thí tiền của.

Tổ Bá nói:

- Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

Ông Cam Chi nói:

- Nói thế nào để tiêu được cái của cúng của tôi? Bèn ra về.

Một lát, lại trở vào, nói:

- Xin được thí tài.

Tổ Bá nói:

- Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

Ông Cam Chi bèn dâng cúng. Lại một ngày nọ, ông vào chùa dọn cháo, xin Tổ Nam Tuyền tụng niệm cho. Tổ Tuyền mới bạch chùy, nói:

- Xin đại chúng vì chồn, trâu già mà niệm: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Ông Cam Chi bèn phất tay áo đi ra. Dùng cháo xong, Tổ Tuyền hỏi thầy Điển Tòa:

- Hành giả đâu rồi?

Đáp:

- Liền khi nãy đi rồi.

Tổ Tuyền bèn đập nát cái nồi.

Ngài Sớ Sơn tụng rằng:

Một mình bày cháo khoe anh tuấn,
Nào hay vương lão lại phong lưu.
Đập tan nồi cháo bày vụng xấu,
Chồn với trâu già một lượt thâu.

Như Ông Cam Chi mới đáng gọi là có thể cúng dường đạo nhân Vô Tâm vậy.

Hành khất có năm nghĩa: Một là, trong chứng bình đẳng, ngoài không thấy tướng giàu nghèo. Hai là, rời cái tâm tham lam kiêu mạn ngã theo điều lợi. Ba là, có sức Đại Định, chẳng có sợ các độc dữ của nhà gái dâm. Bốn là, lìa bỏ sự nghi ghét của phàm phu. Năm là, phá chỗ phân biệt của Nhị Thừa.

Đức Duy Ma Cật nói rằng:

- Nơi ăn mà bình đẳng, thì nơi pháp cũng bình đẳng. Chẳng luận sang hèn, dơ sạch đều chứng Bồ Đề. Đó là viên thành vô lượng công đức của tất cả chúng sanh. Ông Tu Bồ Đề thì bỏ nghèo theo giàu. Ông Đại Ca Diếp thì bỏ giàu theo nghèo. Thế tức là lòng Từ chẳng quân bình, chẳng gọi là lòng Từ bình đẳng. Nhưng khi Ông A Nan trong tâm vừa khởi niệm như thế, là đã rơi vào ý thức phân biệt, bèn thuộc về cái kế sanh nhai của nhà quỷ, nên ma mới có cơ hội.

Làm sao sánh được với sự hành khất như thế này: Thuở trước, có vị Hòa Thượng, thường dùng gậy quảy một cái bao bố với cái nệm rách. Bao nhiêu đồ dùng đều bỏ hết ráo trong cái bao ấy. Vào chợ búa xóm làng, thấy vật gì thì xin. Hoặc thịt chua cá mặn, vừa lấy thì bỏ vào miệng, còn lại thì bỏ trong bao. Đời ấy người ta gọi là Trường Đinh Tử. Một hôm, có vị tăng đi trước mặt, Sư bèn vỗ vào lưng, vị tăng quay đầu lại.

Sư nói:

- Cho ta một đồng tiền.

Tăng nói:

- Nói được thì cho ông một đồng tiền.

Sư bỏ cái bao bố xuống, khoanh tay mà đứng sững.

Lại một ngày nọ, Ngài đứng ở chợ. Có vị tăng hỏi:

- Hòa Thượng tại Trong Ấy làm cái gì?

Ngài đáp:

- Đồng với: Con Người.

Tăng rằng:

- Đến rồi vậy, đến rồi vậy.

Ngài nói:

- Ông chẳng phải là con người ấy đâu.

Tăng hỏi:

- Thế nào là con người đó?

Ngài đáp:

- Cho ta một đồng tiền!

Ngài có bài kệ:

Một bát cơm ngàn nhà,
Cô thân muôn dặm xa.
Mắt xanh, người ít thấy,
Mây trắng hỏi đường qua.

Dịch:
Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Thanh mục đỗ nhân thiển,
Vấn lộ bạch vân đầu.

Nếu khế hợp được chỗ ấy, có thể nói là được Nghi Thức của Chư Phật vậy.

Một hôm, đức Phật bảo A Nan:

- Đã đến giờ, ông nên vào thành đi trì bát.

A Nan vâng lời. Thế Tôn nói:

- Ông đã ôm giữ bát thì phải y theo Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ.

Ông A Nan mới hỏi:

- Như thế nào là Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ?

Thế Tôn gọi lớn:

- A Nan!

Ông A Nan ứng dạ.

Thế Tôn rằng:

- Ôm bát đi!

Ôi, nếu Ông A Nan sớm hiểu chỗ này, thì đâu có việc Ma Đăng Già!

Kinh:

- Khi đi khất thực, Ông A Nan đi qua nhà người dâm nữ Ma Đăng Già, bị phép huyền thuật của cô ta, là tà chú Ta Tì Ca La của ngoại đạo, bắt vào giường riêng dựa kề vuốt ve làm cho ông gần phá giới thể.

Đức Như Lai biết Ông A Nan mắc phải dâm thuật, dùng trai xong liền trở về. Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong được nghe Pháp yếu.

Khi ấy, trên đỉnh Thế Tôn phóng ra ánh sáng rực rỡ Vô Úy, trong hào quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, trên có Hóa Thân của Phật ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú khiến Ngài Văn Thù Sư Lợi đem chú này đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú rồi đưa Ông A Nan và nàng Ma Đăng Già về chỗ của Phật.

Thông rằng: Bộ Hiệp Luận nói Đức Phật thương xót chúng sanh bị trôi lăn trong Tam Giới đều do mắc vào Dục. Trong các thứ Dục, chỉ có cái Dâm Dục là nặng hơn hết, nên bộ kinh này mở đầu bằng việc cô Ma Đăng Già. Để nhấn mạnh là nếu bị chìm đắm vào đó là một hoạn nạn lớn, mà diệt trừ được lại là một lợi ích lớn. Ví như chăn dê thì đánh ở sau, nên hễ có cơ hội là răn nhủ cẩn thận.

Có vị tỳ kheo ni tên là Bảo Hương, thọ Bồ Tát giới mà lại lén làm chuyện dâm, lại nói xằng rằng Dâm Dục chẳng phải giết hại hay trộm cắp nên chẳng có sự trả Nghiệp. Liền từ nữ căn sanh ra ngọn lửa lớn rồi dần dần thiêu luôn cả cơ thể, đọa vào Vô Gián địa ngục.

Còn Ngài Ô Sắc Ma thì nghe Phật dạy rằng người đa dâm như đống lửa lớn, nên tu mà hóa Tánh Dâm thành Hỏa Quang Tam Muội, chứng quả A La Hán. Ngài nói rằng:

- Các phiền não đã tiêu, sanh ra ngọn lửa quý báu, lên bậc Vô Thượng Giác.

Ôi! Vô Thượng Giác là địa vị Phật mà nhờ quán sát Dâm Tánh thì có thể lên được! Địa ngục Vô Gián là đường dữ mà vì theo chuyện dâm nên đang còn sống mà đã bị đọa vào. Luận về mười loại Tập Nhân thì Dâm Tập đứng đầu. Nói là Dâm Tập đứng đầu vì đó là sự giao tiếp, phát sinh từ sự cọ xát, nên có ngọn lửa rất mạnh phát ra ở bên trong. Cớ nên Phật bảo sự Hành Dâm gọi là Lửa Dục. Sau mới đến những tội Tham Lam, Kiêu Mạn. Trong Bộ Luật, nói về ba Nghĩa Quyết Định Tu Hành, đó là nhiếp tâm làm Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ, gọi là ba Vô Lậu Học. Sự đoạn trừ Sát, Đạo, Dâm, Vọng thì kinh này nói Đoạn Dâm trước hết.

Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ Tát tự kể về ba mươi hai Ứng Thân thuyết pháp của Ngài, nói rằng:

- Phạm Thiên Vương nhờ Dục tâm được Minh Ngộ mà cùng với Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đồng gọi là Giải Thoát, còn hai mươi tám hạng kia chỉ có tên thành tựu mà thôi. Lại năm thứ Mùi Cay là thứ làm phát Dâm, tăng Oán Giận nên dạy lập ba món Tiệm Thứ để đoạn trừ, gọi là Tăng Tiến Đệ Nhất. Lại dạy rằng phải quán sát Dâm Dục hơn cả rắn độc, nếu thành tựu được Cấm Giới thì với con mắt thịt của cha mẹ sinh ra có thể thấy suốt cả mười phương.

Đó là gặp cơ hội thì dặn dò kỹ lưỡng vậy. Bộ Luận này quả đã uốn nắn cho ngay ngắn toàn thể mạch lạc của kinh, dặn dò kỹ lưỡng, tỏ liễu sâu xa chỗ mở dạy của bộ kinh mà lấy việc dứt lìa cái Dâm Dục làm đầu, khiến cho người ta sợ hãi đến dựng tóc gáy, lạnh xương sống. Tuy nhiên, người chứng Thật Trí, thì thấy tất cả Thanh, Sắc đều như huyễn như mộng, việc dữ kia chẳng có bóng dáng nào cả ở trong ấy.

Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói:

- Người nhiều Ái Dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất phải bị cháy tay. Thiên Thần dâng Ngọc Nữ để thử Phật, muốn xem đạo ý Ngài ra sao.

Phật nói:

- Cái bao da chứa đồ dơ kia đến đây làm gì. Hãy đi đi! Ta chẳng dùng đến.

Vị Thiên Thần rất kính trọng, thưa hỏi ý đạo. Phật dạy cho, liền đắc quả Tu Đà Hoàn.

Lại còn Kinh Duy Ma Cật có đoạn ông Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ:

- Sao cô chẳng chuyển thân nữ?

Thiên nữ đáp:

- Từ mười hai năm nay, tôi tìm cầu hình tướng người nữ mà chẳng thể được. Vậy thì phải chuyển cái gì? Ví như một nhà huyễn thuật, tạo ra một người nữ huyễn.

Như có người hỏi cô ấy:

- Sao cô không chuyển thân nữ đi? Người ấy hỏi có đúng không?

Xá Lợi Phất trả lời:

- Không đúng! Huyễn không có tướng nhất định, thì có gì mà chuyển.

Thiên Nữ nói:

- Tất cả Chư Phật cũng lại như thế. Hết thảy đều không có định tướng, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ?

Liền đó, Thiên Nữ dùng thần thông biến Ông Xá Lợi Phất thành Thiên Nữ và Thiên Nữ thì hóa thân thành như Xá Lợi Phất; rồi hỏi rằng:

- Sao ông chẳng chuyển thân nữ?

Ông Xá Lợi Phất trong hình tướng thân nữ đáp rằng:

- Không hiểu sao tôi lại biến thành thân nữ?

Thiên Nữ nói:

- Nếu Ông Xá Lợi Phất có thể chuyển thân nữ này, thì hết thảy người nữ cũng có thể chuyển. Như Xá Lợi Phất chẳng phải là người nữ mà lại hiện thân nữ, tất cả người nữ lại cũng như thế, tuy hiện thân nữ mà chẳng phải là người nữ.

Thế nên, đức Phật nói rằng:

- Tất cả các pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ.

Thiên Nữ liền thu lại thần lực, Ông Xá Lợi Phất trở lại như cũ.

Thiên Nữ bảo:

- Này, Ông Xá Lợi Phất, sắc tướng thân nữ bây giờ ở đâu?

Xá Lợi Phất nói:

- Sắc tướng thân nữ không có ở đâu mà không đâu chẳng có.

Thiên Nữ nói:

- Tất cả các pháp lại cũng như thế, không có ở đâu mà không đâu chẳng có.

Ôi! Thần lực của Thiên Nữ có thể chuyển Ông Xá Lợi Phất, còn chú Tiên Phạm Thiên chẳng thể hủy phá Giới Thể của Ông A Nan. Nghĩa hai đoạn kinh có thể so sánh cho rõ ràng vậy.

Kinh:

- A Nan thấy Phật, cúi lạy buồn khóc, căm hận mình từ vô thủy đến nay một bề nghe rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực. Tha thiết xin Phật dạy cho những Pháp Xa Ma Tha (Chỉ), Tam Ma (Quán), Thiền Na (Thiền, Chỉ Quán Viên Tu) vi diệu, là những phương tiện tu hành đầu tiên nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Bồ Đề.

Lúc ấy, lại có hằng sa Bồ Tát, Đại A La Hán và Bích Chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe lời Phật dạy, lui về chỗ ngồi, yên lặng lãnh thọ Thánh chỉ.

Thông rằng: Ông A Nan phát ra lời hỏi đây, là cái xương sống của toàn bộ kinh. Từ đầu đến cuối, Thế Tôn trả lời không bỏ sót chỗ nào. Xa Ma Tha gọi là Chí Tĩnh, là Không Quán. Tam Ma Bát Đề gọi là Lực Dụng Biến Hóa (Như Huyễn), là Giả Quán. Thiền Na là Tịch Diệt, nghĩa là chẳng giữ cái huyễn hóa cũng chẳng trụ tướng Tịnh, tức là Trung Quán.

Kinh Viên Giác nói:

- Tịch tỉnh Xa Ma Tha, như kính soi muôn tượng. Như Huyễn Tam Ma Đề, như mầm giống dần dần tăng trưởng. Thiền Na là Tịch Diệt, như tiếng vang trong chuông. Ba loại diệu Pháp Môn gọi là Giác Tùy Thuận, nhờ chúng mà mười phương Như Lai cùng chư Đại Bồ Tát được thành đạo. Viên chứng được cả ba thứ là rốt ráo Niết Bàn.

Ông A Nan một bề nghe nhiều học rộng, chứ nếu vẫn tu tập ba Pháp Môn này thì đâu còn phải hỏi. Nay ông bị huyễn thuật ắt là trước đây các công phu Quán Hạnh, Thiền Định đều chẳng được gì, nên mới nghĩ mười phương Như Lai hẳn phải có điều vi diệu về các thứ này.

Xét một chữ Diệu, tợ hồ phảng phất thoáng thấy: nào phải mượn đến sự tu hành khó nhọc lao khổ! Chỉ vì chẳng biết cái phương tiện ban đầu hết là do Ngộ Nhập đó vậy.

Kinh Viên Giác cũng có nói:

- Chỉ trừ bậc Đốn Giác, thì không theo Pháp Môn. Vốn có một Pháp Môn Đốn Ngộ, chỉ lấy việc Thấy Tánh (Kiến Tánh) làm Tông. Cho nên, nếu thấy được Tánh, thì Vô Tâm đối với Chỉ, Quán mà Chỉ Quán tự có sẵn. Không thấy Tánh, tuy hằng ngày có tu Chỉ Quán cũng khó địch với cảnh ma.

Chỉ có Thấy Tánh mới được Diệu.

Đoạn kinh sau có nói đến: Diệu Minh Chân Tâm, Biển Diệu Trang Nghiêm, Diệu Minh Minh Diệu... đều để trả lời cho ý nghĩa của chữ Diệu, mà chấm dứt bằng bài kệ:

Gọi đó Diệu Liên Hoa,
Kim Cương Vương, Bảo Giác.
Như huyễn Tam Ma Đề,
Khẩy tay, vượt Vô Học.
Pháp này là Vô Thượng,
Một đường trực nhập Niết Bàn,
Của mười phương chư Phật.

Pháp Đốn Ngộ này, chẳng phải các loại Chỉ Quán, Thiền Định tầm thường có thể so sánh.

Thuở xưa, Ngài Tuyết Phong ba lần tham yết Tổ Đầu Tử, chín lần thưa hỏi Tổ Động Sơn, cũng đã là bậc đa văn. Kế thế Tổ Đức Sơn rồi, cùng Tổ Nham Đầu đến núi Ngao Sơn ở Lễ Châu. Gặp lúc tuyết rơi, Tổ Đầu mỗi ngày chỉ lo ngủ, còn Ngài Tuyết Phong cứ một mạch tọa thiền.

Một hôm, Ngài kêu lớn rằng:

- Sư huynh, Sư huynh! Dậy đi chớ!

Tổ Nham Đầu rằng:

- Làm cái gì?

Ngài đáp:

- Đời này chẳng lo xong thì gặp cái lão Văn Thúy ấy sẽ bị lão trói đấy. Ngày nay đã đến đây, vậy mà chỉ lo ngủ.

Tổ Nham Đầu hét to:

- Cây cột phướn, ngủ đi! Hằng ngày cứ ngồi như ông Thổ Địa trong làng rồi sau nầy đi làm nam nữ ma mị nhà người!

Ngài tự chỉ vào ngực mà nói:

- Tôi đây trong cái ấy chưa yên, chẳng dám tự dối mình.

Tổ Nham Đầu nói:

- Tôi sắp nói rằng ngày sau ông sẽ hướng lên đỉnh núi trơ trụi trên tảng đá kết thảo am, xiển dương đại giáo, sao ông lại nói như thế?

Ngài nói:

- Tôi ở trong ấy quả thật không yên.

Tổ Nham Đầu nói:

- Nếu ông thật như thế, thì cứ theo chỗ thấy của ông, mỗi mỗi nói ra hết đi. Đúng, tôi sẽ chứng minh cho. Không đúng, tôi sửa sang đẽo gọt cho.

Ngài nói:

- Mới đầu, tôi đến tham yết Ngài Giám Quan, nghe buổi giảng nêu lên cái nghĩa Sắc Không, bèn có chỗ vào.

Tổ Nham Đầu nói:

-Chuyện ấy đã ba mươi năm rồi, rất kỵ nêu lại!

Ngài nói:

- Lại thấy bài kệ của Tổ Động Sơn:

Rất kỵ tìm nơi khác,
Mỗi mỗi càng cách xa.
Y nay chính là ta,
Ta giờ chẳng phải y.

Dịch:
Thiết kỵ tùng tha mích,
Điều điều dữ ngã sơ.
Cừ kim chính thị ngã,
Ngã kim bất thị cừ.

Tổ Nham Đầu nói:

- Nếu cho là như thế thì tự cứu cũng chẳng xong.

Ngài lại nói:

- Sau đến hỏi Ngài Đức Sơn: Việc xưa nay trong Tông Thừa người tu học có được phần nào chăng?

Tổ Đức Sơn đánh cho một gậy, mà rằng:

- Nói gì vậy? Khi ấy, tôi như thùng vỡ đáy.

Tổ Nham Đầu hét to:

- Ông há chẳng nghe nói: Từ cửa mà vào ắt chẳng phải là của báu nhà mình, sao?

Ngài hỏi:

- Ngày sau như thế nào mới phải?

Tổ Nham Đầu đáp:

- Ngày sau mà muốn hoằng dương đại giáo, mỗi mỗi đều từ trong ngực mình tuôn ra. Ngày sau hãy cùng ta mà trùm trời trùm đất đi.

Ngài Tuyết Phong nghe xong đại ngộ, bèn làm lễ, mừng rỡ la lên rằng:

- Sư huynh ơi, hôm nay mới đúng là Ngao Sơn thành đạo.

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay. Đâu phải cứ một bề ngồi thiền mà có được thứ thoại đầu này!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I

CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC MỘT: GẠN HỎI CÁI TÂM

I- NGUYÊN DO CỦA THƯỜNG TRỤ VÀ LƯU CHUYỂN.

Kinh:

Phật bảo Ông A Nan:

- Ông với Ta đồng phái, tình như anh em ruột. Khi ông mới phát tâm, thì ở trong Phật Pháp, thấy tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng của thế gian?

Ông A Nan bạch Phật:

- Tôi thấy ba mươi hai tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly. Thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do Dục Ái sanh ra. Vì sao? Thứ dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sanh được thân vàng chói trong sạch sáng ngời như vậy, nên tôi khao khát ngưỡng mộ xuống tóc mà theo Phật.

Thông rằng: Ông A Nan nhờ có cái suy nghĩ này làm gốc rễ cho tâm đạo ban đầu, nên khi gặp huyễn thuật, chẳng có quá đỗi hoa mắt mê loạn, dù đã vào nhà dâm mà chưa phá hủy Giới Thể. Nhưng chỉ lấy ba mươi hai tướng tốt mà thấy Như Lai, không khỏi dùng Sắc mà thấy, lấy Tiếng mà cầu, nên còn trong tà giải, đối với Chân Pháp Thân của Phật còn xa xôi lắm.

Thiền sư Tùy Châu Pháp Vi thượng đường rằng:

- Cái Pháp Thân không có hình tướng, chẳng thể dùng âm thanh tìm cầu. Diệu đạo tuyệt hết lời nói, đâu phải lấy văn tự mà hiểu. Cho dù siêu Phật, vượt Tổ vẫn còn rơi vào thềm bực. Dù cho có nói diệu, bàn huyền rốt cuộc cũng treo môi răng. Cần phải: chỗ công đức chẳng hưởng chút công lao, hình ảnh vết tích chẳng còn lưu lại; cây khô hang lạnh rốt thảy vô tri; người huyễn ngựa gỗ, tình thức đều không. Chừng ấy mới thỏng tay vào chợ, chuyển thân loài khác. Không thấy đạo, thì: Nơi đất vô lậu nào ở được. Đành về cát lạnh khói sương nằm.

Đối với chỗ này tỏ hiểu thì nào phải đợi thấy cái thân vàng chói trong sạch mới gọi là Như Lai ư?

Kinh:

Phật dạy:

- Lành thay, A Nan! Các ông phải biết tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống chết nối nhau, đều do không biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Thể Tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà lại dùng các Vọng Tưởng. Các tưởng này chẳng chân thật, nên mới có sự chuyển động trôi lăn.

Thông rằng: Ông A Nan ân cần, tha thiết thưa hỏi Pháp Môn Vi Diệu Xa Ma Tha, Tam Ma, Thiền Na là những phương tiện ban đầu nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Chánh Giác. Chính là muốn biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể trong sạch sáng suốt, là cái Bản Thể Bất Diệt không bị xoay chuyển luân hồi. Ông đã nói: Tướng ấy chẳng phải do Ái Dục sanh ra, là đã hiểu rõ rằng Dục Ái nhơ nhớp, Vọng Tưởng tạp loạn chính là cái gốc rễ Sanh Tử từ vô thủy đến giờ.

Cho nên Phật mới khen rằng:

- Lành thay! Cái Chân Tâm Thường Trụ, vốn không sanh ra và diệt mất. Vừa khởi Vọng Tưởng liền nhập luân hồi. Không phải chỉ có Dục Ái nặng nề, nghiệp dữ đa mang đều chẳng phải chơn, mà bậc Thanh Văn, Duyên Giác chưa hết lòng chấp trước thì cũng đều là Vọng. Vọng tưởng hết sạch thì Tánh Thể sáng suốt, vốn tự Vô Sanh, làm sao mà có luân chuyển. Toàn cả bộ kinh đều phát minh ý chỉ này. Cho nên, biết cái Chân Tâm Thường Trụ, tức là Thấy Tánh, Thấy Tánh thì Vô Sự vậy.

Ngài Linh Vân thượng đường dạy:

- Hỡi các nhân giả, hễ có dài có ngắn là chẳng có Thường. Hãy xem bốn mùa hoa cỏ, hoa nở lá rơi. Xưa nay trời người bảy nẻo, Đất Nước Gió Lửa, thành hoại chuyển vần, nhân quả nối nhau, ba đường ác khổ, mảy lông cọng tóc chưa từng thêm bớt, chỉ có cái gốc thần thức là thường còn. Hạng Thượng Căn gặp bạn lành soi sáng, ngay đây là Giải Thoát, trước mắt là đạo tràng. Bực Trung, bực Hạ si mê ám độn, chẳng soi suốt được, mê chìm trong ba cõi, luân chuyển tử sinh. Đức Thích Tôn vì họ, tất cả Trời người, mà dạy dỗ chứng minh, tỏ bày con đường Vô Thượng. Các ông lại am hiểu chăng?

Có vị tăng hỏi:

- Làm sao để ra khỏi Sanh Lão Bệnh Tử?

Ngài đáp:

Núi xanh nguyên chẳng động,
Mặc tình mây qua lại.

Dịch:
Thanh sơn nguyên bất động,
Phù vân nhậm khứ lai.

Câu này đủ để chú thích đoạn kinh trên. Không thể thêm bớt một chữ.

Kinh:

- Nay ông muốn học đạo Bồ Đề Vô Thượng, phát minh Chơn Tánh thì phải lấy Tâm Ngay Thẳng (Trực Tâm) mà trả lời chỗ Ta hỏi. Mười phương Như Lai đồng một con đường mà ra khỏi Sanh Tử đều là bởi Tâm Ngay Thẳng. Tâm mà nói là Ngay Thẳng, tức là từ địa vị đầu tiên cho đến cuối cùng, suốt trong khoảng giữa, cứ như thế, một mực không có những tướng quanh co.

Thông rằng: Hiệp Luận nói ở đây, đặc biệt là: Chân Phát Minh Tánh, vậy thì cũng có "Vọng Phát Minh Tánh" sao? Có chứ. Làm sao để phân biệt?

Đáp:

- Vô tâm tùy mặc xoay vần mà khắp biết, vốn mầu nhiệm sáng soi mà hằng vắng lặng, ấy là Chân Phát Minh Tánh.

Chỗ nói: Mười phương Như Lai đều cùng một đường mà ra khỏi Sanh Tử đều do Trực Tâm, là thế. Còn nghịch với thời tiết, bỏ lỡ nhân duyên, lấy vọng tưởng mà gắng gượng hiểu biết, là: Vọng Phát Minh Tánh.

Chỗ nói: Dùng các vọng tưởng, vọng tưởng này chẳng chân thật nên có luân hồi, chính là thế. Vốn là một Thể, nhưng bởi vì không có tự tánh, không có thời gian, nên tùy chỗ dùng mà có sai khác đó thôi. Tùy mặc xoay vần, hằng hằng vắng lặng mà Hay Biết, ắt hợp với Bổn Tánh nhiệm mầu. Nghịch thời lỡ duyên mà Biết, ắt hợp với Trần Cảnh hư vọng.

Ngài Mã Minh dạy:

- Cái Bổn Tánh vốn trong sạch, bởi vì Vô Minh bất giác mà hiện ra tướng tâm ô nhiễm. Tuy có tâm ô nhiễm, Bổn Tánh vẫn thường sáng suốt trong sạch. Cái tướng của tâm ô nhiễm là Vô Minh đang hiện hành. Còn Bổn Tánh sáng sạch là cái Trí Thể Bất Động.

Có vị tăng hỏi Tổ Vân Am:

- Luận Tạp Hoa nói: Cái vô minh đang hiện hành tức là Như Lai Bất Động Trí. Điều này thật khó tin, làm sao hiểu được?

Khi ấy có một đồng tử đang quét đất.

Tổ Am bèn gọi. Đồng tử quay đầu lại.

Tổ Am nói:

- Chẳng phải là Bất Động Trí đó sao?

Lại hỏi:

- Cái Phật Tánh của ngươi như thế nào?

Đồng tử nhìn qua trái, qua phải, như không vậy rồi bỏ đi.

Tổ Am nói:

- Chẳng phải là vô minh hiện hành đó sao?

Chân Phát Minh Tánh ấy, như ánh sáng của hạt minh châu, thường tự soi hạt châu. Đức Khổng Tử dạy: Không Nghĩ Quấy, là cũng gần giống vậy. Còn Vọng Phát Minh Tánh thì ví như phương Đông trời sắp sáng, trong khoảng lờ mờ, có chút bóng sắc.

Kinh Dịch nói: Chỗ Mờ Tối Hỗn Tạp Mà Sáng. Là gần giống vậy.

Kinh:

A Nan, nay Ta hỏi ông:

- Đương khi ông do ba mươi hai tướng của Như Lai mà phát tâm thì ông lấy cái gì mà thấy và cái gì ưa thích?

Thông rằng: Đây là chỗ từ từ dẫn dụ trước hết của Thế Tôn.

Đức Thế Tôn há chẳng biết rằng: Sự Thấy thuộc về con mắt, ưa thích thuộc về cái tâm, hay sao?

Nhưng cái Thấy Có đó, là cái Thấy về hình tướng hữu vi. Cái "có chỗ ưa thích" ấy, là cái ưa về hình tướng hữu vi. Nên hỏi ai thấy, ai yêu, cốt để A Nan ngay lúc ấy nhận ra và nắm lấy con người thực xưa nay của mình vậy. Nếu có thể hồi quang phản chiếu, tìm cầu cái Thấy ấy, chợt hiểu Bất Khả Đắc, hết thảy ưa muốn vốn chưa từng có gốc rễ, tức thì nhập ngay vào Định Thủ Lăng Nghiêm. Thế chẳng khoái sao? Về sau, nhà Thiền hay dùng cái cơ chốt này.

Có nhà sư hỏi Tổ Bá Trượng:

- Như sao là Phật?

Tổ Trượng hỏi:

- Ông đó là ai?

Đáp:

- Tôi đây vậy.

Tổ Trượng rằng:

- Ông biết cái Tôi đó chăng?

Đáp:

- Rõ ràng vậy.

Tổ Trượng bèn dựng đứng cây phất tử lên, rằng:

- Ông lại thấy chăng?

Đáp:

- Thấy.

Tổ Trượng bèn chẳng thốt lời nào.

Chỗ hỏi của vị tăng là Phật, mà Tổ Trượng lại chẳng nói gì đến Phật, chỉ ở Chỗ Thấy của vị tăng mà nhắc nhở. Một tắc này, rõ ràng bày tỏ được cái khuôn mẫu của Lăng Nghiêm.

Kinh:

A Nan bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, sự ưa thích đó là dùng cái tâm và con mắt của tôi. Do mắt thấy tướng tốt của Như Lai, tâm sinh ưa thích, nên tôi phát tâm nguyện lìa bỏ sanh tử.

Phật bảo Ông A Nan:

- Như chỗ ông nói, thật do tâm và con mắt mà có ưa thích. Nếu không biết tâm và mắt ở đâu, thì chẳng dẹp được trần lao. Ví như bậc quốc vương bị giặc xâm lăng, phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần nhất phải biết chỗ ở của kẻ giặc. Khiến ông bị luân hồi, thì tâm và mắt là thủ phạm. Nay ta hỏi ông:
- Tâm và mắt ấy hiện ở chỗ nào?

Thông rằng: Chỗ hỏi của Thế Tôn là riêng tỏ về chỗ Hướng Thượng Nhất Lộ. Nói: Lấy cái gì mà thấy, lấy ai ưa thích, rõ ràng là chỉ thẳng mặt trăng. Chỗ đáp của Ông A Nan chưa rời khỏi thường tình, chỉ biết hợp theo Trần mà chẳng biết hợp với Giác. Xoay lưng lại với Giác mà hiệp theo Trần, là lỗi của ai? Sáu Giặc (sáu Căn) làm môi giới, tự cướp lấy của báu nhà mình. Cho nên, chỗ Ông A Nan nói: Tâm và Mắt, chỉ là Căn và Thức, lôi kéo theo trần lao, lưu chuyển cùng sanh tử. Cái Thường Trụ Chân Tâm như vua trong nước, vì bị giặc xâm lấn, nên vốn trong sạch mà gọi là dơ, vốn sáng soi mà gọi là mờ ám. Tâm và mắt thật là lũ giặc của Chân Tánh vậy. Do đó, phải thấu đến cùng sào huyệt của chúng mà diệt trừ. Nghịch dòng trôi lăn, giữ tròn Chân Tánh, Lục Dụng (sáu Thức) chẳng hiện hành, mà phát ra sự sáng rỡ trong sạch vốn có, sáu Căn đồng dùng thay lẫn cho nhau, con mắt thịt do cha mẹ sanh ra thấy suốt mười phương, thì còn đâu các lỗi bị lưu chuyển nữa!

Thiền sư Tử Hồ Tung có đêm la lớn:

- Có cướp! Có cướp!

Đệ tử choàng dậy tranh nhau đuổi bắt. Ngài chụp lại một người, nói rằng:

- Bắt được một tên rồi.

Người đệ tử ấy nói:

- Không phải đâu, chính là tôi đây.

Ngài buông ra nói rằng:

- Chính là. Chỉ bởi vì Chẳng Chịu Nhận Lấy đó thôi!

Cho nên, nếu chịu nhận lấy thì giặc cướp tức là con cái. Chẳng thể kham lấy, con cái trở lại làm giặc. Đoạn thuyết thoại này đối với chuyện vị quốc vương đem binh trừ giặc, thật là một phen hý lộng, riêng cho Bực Có Mắt, đó thôi.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

II- CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN

Kinh:

Ông A Nan bạch với Phật:

- Thưa Thế Tôn, tất cả mười loài chúng sanh ở thế gian đều cho cái Thức Tâm Hay Biết là ở trong thân. Thiết nghĩ, thì con mắt như hoa sen xanh của Như Lai cũng ở trên mặt Phật. Nay tôi thấy con mắt vật chất của tôi cũng ở trên mặt tôi. Như vậy thì cái Thức Tâm thật ở trong Thân.

Phật bảo Ông A Nan:

- Hiện nay ông ngồi trong giảng đường của Như Lai. Ông hãy xem rừng Kỳ Đà ở đâu?

- Thưa Thế Tôn, giảng đường cao lớn thanh tịnh này ở trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà hiện thật ở ngoài giảng đường.

- A Nan, nay ông ở trong giảng đường, thì ông thấy cái gì trước tiên?

- Thưa Thế Tôn, tôi ở trong giảng đường, trước hết là thấy Như Lai, sau đó là đại chúng, rồi nhìn ra ngoài thấy vườn rừng.

- A Nan, do đâu ông thấy được vườn rừng?

- Thưa Thế Tôn, do các cửa giảng đường mở rộng, nên tôi ở trong này mà thấy được ra ngoài xa.

Thông rằng: Phù Căn Tứ Trần cũng giống như sáu Căn, đây chỉ về Nhãn Căn mà thôi. Đất, Nước, Lửa, Gió: Tánh chúng xưa nay vốn trong sạch; mà Tướng của Đất, Nước, Lửa, Gió mỗi mỗi đều dao động như bụi bặm, gọi là Trần. Khi sáu Căn tạo thành thì nương theo tứ Trần này: Sáu Căn chìm vào trong, bốn Đại trôi nổi ở bên ngoài, cho nên gọi là Phù Căn Tứ Trần. Với cả mười loài, Thức Tâm đều ở trong, mắt ở trên mặt thì không nói cũng biết rồi. Con mắt của Như Lai ở trên mặt, nhưng không dám xác quyết Thức Tâm là ở trong, vì Như Lai đã rời lìa cái Thức rồi, vì cái Pháp Thân thì tròn đầy không có trong hay ngoài vậy. A Nan nói ra thật đắn đo, mà người dịch cũng cẩn thận. Thế Tôn muốn bày rõ cái nghĩa: Tâm chẳng ở trong, nên trước hết lấy giảng đường, rừng vườn, cửa nẻo làm ví dụ. Giảng đường ví như trong thân, vườn rừng ví như ngoại vật, cửa nẻo ví như lục căn. Nếu Ông A Nan là người tỏ suốt, thấy được con người đích thực của A Nan, vốn chẳng thuộc giảng đường, chẳng thuộc vườn rừng, chẳng thuộc cửa nẻo, thì ông sẽ đến đi tự tại, không làm gì có trong có ngoài.
Nếu chấp chặt tâm này, lầm lạc cho là ở trong Sắc Thân, lấy tạng phủ làm nhà nhốt kín, lấy sáu căn làm cửa nẻo, ôm lấy ngoại cảnh làm vườn rừng, rồi nghĩ rằng ngoài những thứ đó thì không có chỗ an thân. Một mai, nhà hư cửa nát, cảnh đổi, cái Thấy tiêu vong, thì còn chỗ nào để an được. Thế Tôn tuy nương theo chỗ bình thường biện biệt thứ tự trong ngoài, cũng chỉ rõ ràng sắc thân vốn như huyễn, chẳng phải là chỗ để bám chấp được. Như giảng đường, cửa cái, cửa sổ đối với ta chẳng có tương can gì.

Ngài Trí Huy Thiền sư trước khi tịch có bài kệ:

Ta có một căn nhà,
Xây lợp bởi mẹ cha.
Tám mươi năm lui tới,
Gần đây rõ sắp hoại.
Sớm liệu dời nơi khác,
Nào có chuyện ghét thương.
Đợi lúc kia sập nát,
Đây kia không ngăn ngại.

Dịch:
Ngã hữu nhất gian xá,
Phụ mẫu vị tu cái.
Vãng lai bát thập niên,
Cận lai giác tổn hoài.
Tảo nghị di biệt xứ,
Sự thiệp hữu tắng ái.
Đãi tha tồi hủy thời,
Bỉ thử vô phòng ngại.

Rồi ngồi kiết già mà đi. Đó là thương ghét đều quên, đến đi không trở ngại, cái Năng Kiến đã tiêu vong thì còn nói gì đến chuyện trong ngoài nữa.

Kinh:

-Khi ấy, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, đưa cánh tay sắc vàng xoa đầu Ông A Nan, dạy ông và đại chúng rằng:

Có Pháp Tam Ma Đề, tên là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, gồm đủ muôn hạnh. Mười phương Như Lai, đều do một pháp môn là con đường Diệu Trang Nghiêm ấy mà siêu xuất. Nay ông hãy nghĩ kỹ!

Ông A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.

Thông rằng: Một pháp môn siêu xuất này rõ ràng chỉ ra con đường Đốn Ngộ cốt ở chỗ chuyển Thức thành Trí. Tinh thuần dùng Kim Cang Càn Huệ mới có thể nói là con đường đạo Chân Thật.

Sau này, trong kinh có nói:

- Diệu Pháp này, vô lượng Chư Phật trong hằng sa kiếp đời quá khứ, nhờ khai ngộ cái tâm này mà được đạo Vô Thượng. Thức Ấm tận hết, thì ngay đây các Căn của ông có thể dùng thay cho nhau được. Từ trong chỗ dùng thay nhau đó mà có thể thấu vào Kim Cương Càn Huệ của Bồ Tát. Cái Tâm thuần nhất tròn sáng ở trong phát chiếu ra, như ngọc lưu ly trong sạch, ngậm mặt trăng quý báu ở trong. Như vậy rồi vượt lên hàng Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm, đến chỗ tu hành của Kim Cương Thập Địa Bồ Tát, đến địa vị Đẳng Giác Tròn Sáng, nhập vào cái Biển Trang Nghiêm Mầu Nhiệm của Như Lai, tròn đầy cái Đạo, quy về trong cái Vô Sở Đắc.

Đầu đuôi ứng nhau, tất lấy việc siêu xuất Thức Ấm làm cái quy tắc rốt ráo. Đức Thế Tôn thấu suốt rằng sự tiếp nối nhau của sanh tử thế gian chỉ là sự tiếp nối nhau của mỗi mỗi vọng tưởng, mê mờ chẳng hề biết quay trở lại. Thức Ấm hết ráo, đó là Chân Tâm Thường Trụ, hiện bày trước mắt, Thể Tánh trong sạch sáng soi, cùng Phật không khác. Cho nên, phá được Thức Ấm, tức nhập Đốn Môn. Ông A Nan tuy thông minh học rộng, rốt cuộc chẳng ra khỏi thức tình phân biệt. Thức tình chưa trừ, chỉ là ở chỗ “Có đắc”. Mà chứng Bồ Đề, chỉ ở tại chỗ “Không đắc”. Cho nên, phần sau của kinh, nơi bảy chỗ hiển bày cái Tâm, Ông A Nan mỗi mỗi cứ lấy chỗ “Có đắc” mà tự trói, còn Thế Tôn thì thảy thảy đều lấy chỗ “Không đắc” mà quét sạch.

Kinh Lăng Già nói:

- Có tướng để đắc là Thức, không có tướng để đắc là Trí. Đây thật là Đốn Môn liền chứng Bồ Đề vậy.

Đức Nhị Tổ Thần Quang, chặt tay trước mặt Sơ Tổ Đạt Ma cầu xin pháp môn: An Tâm.

Tổ nói:

- Đem cái tâm lại đây ta an cho!

Ngài Thần Quang thưa:

- Tìm hết tâm rồi, rốt là không thể đắc!

Sơ Tổ nói:

- Ta an tâm cho ông rồi đó.

Nếu Ông A Nan có thể tin được bảy chỗ trưng bày tâm đều bất khả đắc, thì y bát đâu có riêng truyền cho Ông Ca Diếp!

Kinh:

- Phật bảo Ông A Nan. Như lời ông nói: Ở giảng đường, do cửa mở rộng nên ông thấy được vườn rừng ở xa. Liệu có chúng sanh nào ở trong giảng đường, không thấy Như Lai mà lại thấy được ngoài giảng đường không?

Ông A Nan thưa:

- Thưa Thế Tôn, ở trong giảng đường không thấy Như Lai mà lại thấy được rừng suối bên ngoài, thật không có lẽ đó.

Phật dạy:

- A Nan, ông cũng như thế. Cái tâm linh của ông, hết thảy đều rõ biết. Nếu hiện nay cái tâm rõ biết đó của ông thật ở trong thân, thì trước hết nó phải rõ biết trong thân thể. Vậy có chúng sanh nào, trước thấy bên trong thân rồi sau mới thấy những vật ở bên ngoài không? Dầu không thấy được tim, gan, tì, vị nhưng móng tay mọc, tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy, đúng ra phải rõ, sao lại không biết? Đã không biết bên trong, làm sao biết được bên ngoài? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay rõ biết đó trụ ở thân, không có lẽ nào như vậy.

Thông rằng: Do mắt thấy mà tâm biết, chẳng rời căn trần, do bởi phía trong mà biết phía ngoài, đó là cái thấy bình thường thế tục. Đức Thế Tôn bèn ở nơi cái thấy thường tình mà bác bỏ rằng: Đã không biết phía trong làm sao ở phía trong? Tuy người có Trí cũng phải khuất phục bởi lý luận này. Thật ra, tim gan tì vị, không gì mà chẳng biết rõ. Móng tóc gân mạch, không gì mà chẳng hay. Nếu không hay biết, thì hóa ra chỉ là một vật ù lì vậy sao?

Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ:

Đêm đêm ôm Phật ngủ,
Sáng sáng cùng Phật dậy.
Đứng ngồi vẫn theo nhau,
Nói nín đồng vừa vặn.
Mảy tơ chẳng lìa nhau,
Tương tự như hình, bóng.
Muốn biết chỗ Phật ở,
Lời nói âm thanh đó.

Dịch:
Dạ dạ bảo Phật miên,
Triêu triêu hoàn cọng khởi.
Khởi tọa trấn tương tùy,
Ngữ mặc đồng cư chỉ.
Túng hào bất tương ly,
Như thân ảnh tương tự.
Dục thức Phật khứ xứ,
Chỉ giá ngữ thanh thị.

Theo lời nói này đây, thì nói rằng: Cái tâm rõ biết ở trong Thân, cũng chẳng phải là không đúng!

Ngài Vân Môn nói rằng:

- Luận Bảo Tạng nói:

- Trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu, ẩn tại Non Hình (thân thể). Cầm lồng đèn hướng vào trong Phật điện, đem ba cửa đến để trên lồng đèn, để làm gì?

Ngài tự thay thế mà nói:

- Theo vật, ý dời.

Lại nói:

- Mây nổi sấm động.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Xem đi,
Bến cổ ai kia nắm cần câu.
Mây trùng trùng, nước mênh mông,
Trăng sáng, bông lau, anh tự thấy!

Đoạn công án này nói cái: Năng Tri Tỏ Biết và cái Bổn Giác Tròn Sáng, rất dễ lẫn lộn, cũng tương tợ như trăng sáng và bông lau, nên cần soi xét phân biệt. Nếu soi xét phân biệt ra được, thì không chỉ lồng đèn và lộ trụ, mà còn đốn triệt được Tâm Tông của Tổ Vân Môn, và cái vật báu trong thân cũng cùng với Tăng Triệu khế hợp. Đâu phải là bọn ma mị tinh hồn giỡn cợt tầm thường có thể mượn lời mà nói được.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

IV- CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy: Vì không thấy bên trong thân, nên tâm không ở trong thân. Vì thân và tâm cùng biết một lần, không thể rời nhau nên tâm không riêng ở ngoài thân được. Nay tôi suy nghĩ, biết tâm ở một chỗ!

Phật bảo:

- Chỗ ấy ở đâu?

Ông A Nan bạch Phật:

- Cái tâm Hay Biết ấy đã không biết bên trong mà lại thấy bên ngoài. Theo như tôi xét nghĩ, thì nó nấp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt, con mắt tuy là có vật úp vào nhưng không bị trở ngại, con mắt ấy vừa thấy thì liền phân biệt được ngay. Cái tâm hay biết của tôi không thấy bên trong là vì tâm ấy ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài rõ ràng không ngăn ngại, vì tâm nấp sau con mắt.

Phật bảo Ông A Nan:

- Theo chỗ ông nói: Tâm nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly. Vậy thì người kia đang khi lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, trông thấy núi sông thì có trông thấy chén lưu ly không?

- Thưa Thế Tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt thật có thấy chén lưu ly.

Phật bảo Ông A Nan:

- Nếu tâm ông nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly, thì khi trông thấy núi sông sao không trông thấy con mắt? Nếu thấy con mắt, thì con mắt cũng là ngoại cảnh, không thể mắt liền thấy mà tâm liền biết được. Nếu không thấy được con mắt, thì sao lại nói rằng tâm nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly? Vậy, nên biết rằng ông nói cái tâm Hay Biết nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly, thật không đúng vậy.

Thông rằng: Luận Bát Thức Quy Củ nói: Kẻ ngu khó phân biệt được Căn và Thức. Vậy thì Căn và Thức khó phân biệt từ xưa rồi. Nếu nói: Căn chẳng phải là Thức thì Căn tự là Căn, Thức tự là Thức. Thức thường thấy cái Căn. Nếu nói: Căn tức là Thức, thì người chết kia, con mắt cũng hiện còn, tại sao chẳng thấy. Cho nên biết rằng năm Căn chỉ là vật sắc trong suốt soi cảnh vật mà thôi, còn Thức thì hiểu biết phân biệt. Chủng Tử và Hiện Hành của hai thứ huân tập chẳng giống nhau. Năm Căn tức là sắc pháp, là Tướng Phần của Thức Thứ Tám, đủ cả hai nghĩa Chấp (Giữ) và Thọ (Lãnh), có tánh vô ký và trắng sạch suốt.

Năm Thức thuộc về tâm pháp, tức là Kiến Phần của Thức Thứ Tám, đủ cả ba Tánh (Thiện, Ác, Vô Ký), hay hiểu biết rõ ràng gọi là Tánh Cảnh thuộc về Hiện Lượng, nên Luận nói: Tánh Cảnh, Hiện Lượng thông ba tánh.
Đến Thức Thứ Sáu mới có Phân Biệt, thuộc về Tỷ Lượng, Phi Lượng. Đây là chỗ phân biệt giữa Căn và Thức.

Ông A Nan nói rằng: Căn ấy vừa thấy liền phân biệt ngay, là đúng. Nhưng nói tiếp: Cái tâm nấp ở trong Căn như chén lưu ly úp lên mắt, thì sai. Vì, nếu quả như khi chén lưu ly úp lên mắt, thì mắt thấy núi sông cũng thấy được chén lưu ly, cũng thế, tâm khi thấy núi sông, cũng phải thấy con mắt. Nay tâm chẳng thấy con mắt, tức là rõ ràng tâm chẳng phải ngầm ẩn trong con mắt. Ví dụ để so sánh của ông chẳng chân thật, chính thuộc Phi Lượng. Xét chỗ chỉ bày của Ông A Nan thì cái tâm Tri Giác chỉ là sáu Thức Phân Biệt vậy. Sáu Thức này do đâu khởi ra? Đó là do sự truyền tống, chuyển đưa của Thức Thứ Bảy và do sự hàm tàng, chứa giữ của Thức Thứ Tám. Dầu cho sự phân biệt dễ bỏ, mà Hành Ấm khó trừ. Dầu cho Hành Ấm dễ tiêu, mà chủng tử khó chuyển hóa.

Nay đối với sáu Thức Phân Biệt mà Ông A Nan còn chưa biết chỗ ở của chúng, huống hồ lại biết được cái Thức Thứ Bảy và Thức Thứ Tám? Chỗ ở còn không biết, nói gì đến chuyện đem binh đi đánh dẹp?

Kinh này mới đầu phá hang ổ của sáu Thức, nên mới có bảy chỗ trưng bày của Tâm. Sau cùng công kích các cơ quan đầu não của Thức Thứ Tám, cho đến lúc Thức Ấm hết sạch. Đây là đại lược việc chuyển Thức thành Trí.
Văn sau của kinh nói rằng: Tuy để được Sáu tiêu hết, dường còn chưa mất cái Một. Đến khi Một, Sáu đều tiêu, rồi không chỗ dựa, mới nhìn lại cái đoạn “Nấp trong con mắt giống như lấy chén lưu ly mà úp” này, lại không phát ra một tiếng cười lớn hay sao! Tuy nhiên, nếu khéo thí dụ, thì không gì mà chẳng được!

Xưa, Trung Ấp Hồng thiền sư, có Ngài Ngưỡng Sơn đến tạ ơn truyền Giới, xong rồi hỏi rằng:

- Cái nghĩa Phật Tánh như thế nào?

Tổ Ấp đáp:

- Tôi sẽ nói một ví dụ cho ông: Giống như cái nhà có sáu cửa sổ, trong ấy có nhốt một con khỉ lớn, ở ngoài có con khỉ lớn kêu rằng “Đười ươi”, thì con ở trong liền ứng đáp. Y vậy, cả sáu cửa đồng kêu vang, đồng ứng đáp.

Ngài Ngưỡng Sơn lễ tạ rồi đứng lên thưa rằng:

- Nhờ ơn Hòa Thượng thí dụ, không gì chẳng rõ. Lại còn có một sự: Nếu con khỉ ở trong mê ngủ, con khỉ lớn ở ngoài muốn cùng gặp nhau, thì làm sao?

Tổ Ấp bước xuống khỏi chỗ ngồi, nắm tay Ngài Ngưỡng Sơn nhảy múa mà nói:

- Đười ươi cùng ông gặp nhau rồi đó. Ví như con tò vò làm tổ trên lông nheo con muỗi, hướng về ngã tư đường mà hô hoán rằng: Đất rộng người thưa, tương phùng ấy ít.

Tổ Vân Cư Tích nói rằng:

- Khi ấy mà Trung Ấp không được một lời nói ấy của Ngưỡng Sơn, thì làm gì có Trung Ấp!

Tổ Trung Thọ Trù nói:

- Có người nào định được đạo lý này chăng? Nếu định chẳng được thì chỉ là kẻ bắt tay chơn của tinh hồn làm trò hý lộng. Nghĩa Phật Tánh ở tại chỗ nào?

Thiền sư Huyền Giác nói:

- Nếu chẳng phải là Ngưỡng Sơn, làm sao được thấy Trung Ấp. Hãy nói đâu là chỗ Ngưỡng Sơn được gặp Trung Ấp?

Tổ Thiên Đồng tụng rằng:

Nhà tuyết ngũ vùi năm sắp hết,
Cửa rêu đêm chẳng mở, thâm u.
Vườn rừng khô lạnh xem biến đổi,
Gió xuân thổi dậy luật Đồng Khôi.

Bài tụng này rõ ràng ca ngợi chỗ ngủ của Ngài Ngưỡng Sơn, chẳng đọa vào sự khô chết. Đó tức là chỗ Ngài Trung Ấp và Ngưỡng Sơn gặp nhau, quả là cái cảnh giới Một, Sáu điều tiêu, nhưng cái chuyện “Vườn rừng biến thái như luật Đồng Khôi” với lại “Tay chân tinh hồn” thì khác nhau biết bao!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

V- CHẤP NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ THẤY BÊN TRONG THÂN

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy: Trong thân thể chúng sanh nầy, tạng phủ ở bên trong, khiếu huyệt ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng.

Nay tôi trả lời với Phật rằng:

- Mở mắt thấy sáng, gọi là thấy bên ngoài. Nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào?

Phật bảo Ông A Nan:

- Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, thì cái cảnh tối ấy là đối với con mắt hay không đối với con mắt. Nếu đối với mắt thì cái tối ở trước mắt sao lại thành ở trong thân? Còn cái tối đó thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hay của đèn, thì cái gì ở trong nhà tối đó đều là phủ tạng của ông hết hay sao? Còn nếu cái tối không đối với Mắt, thì làm sao thành ra có thấy?

Nếu cho rằng rời cái thấy sáng bên ngoài thì thành ra cái thấy tối đối với bên trong, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong thân, thì khi mở mắt thấy sáng sao lại không thấy cái mặt?

Nếu không thấy cái mặt thì cái thấy tối đối với bên trong cũng không thành được. Còn như thấy được cái mặt, thì cái tâm Hay Biết ấy và con mắt đều ở giữa hư không, sao lại thành ở trong thân được?

Nếu tâm và con mắt ở giữa hư không thì tất nhiên không phải là thân thể của ông, vì không lẽ hiện nay Như Lai thấy mặt ông cũng là thân của ông hay sao? Và như thế thì con mắt của ông đã biết mà thân của ông lại chẳng biết. Thế là theo lời nói chấp trước của ông, thân và mắt ở riêng như thế đều có Tánh Biết, thì ông lại có hai Tánh Biết, rồi chính một thân ông sẽ thành hai đức Phật hay sao? Vậy, phải biết rằng ông nói thấy tối gọi là thấy bên trong thân, thật không có lẽ ấy.

Thông rằng: Ông A Nan chỉ vì nghi vướng vào lời nói: Chẳng thể thấy bên trong, mà sanh ra bao nhiêu là suy đoán. “Nấp sau con mắt” đã chẳng phải, thì “Cái thấy tối xoay vào trong” lại đúng hay sao? Cái “Thấy tối” này lại càng suy ra nhiều suy tính hơn. Ông A Nan tuy chưa tỏ lời mà Đức Thế Tôn mỗi mỗi đem ra phá sạch.

Ban đầu là hỏi cái cảnh tối đó là đối với mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì thành cảnh ở ngoài, còn nếu không đối với mắt thì chẳng thấy được, thì cái tối đó không thể gọi là ở trong vậy. Đã cho là cái Thấy của “Năng Kiến” là do nhìn trở lại chứ không nhờ con Mắt, thì nếu nhắm mắt nhìn vào trong thấy tối, ắt mở mắt quay lại nhìn cũng có thể thấy mặt. Mặt không thấy được, làm sao thấy được cái tối, vậy thì cái Thấy ấy không thể thấy bên trong.

Nếu lại dùng tâm thức im lặng suy xét, đây là tạng phủ, đây là mặt mày, mà gọi là cái Thấy, thì cái tâm Nhãn ấy, chẳng phải ở tại hư không sao?

Nếu cho là Tâm, mắt vốn ở tại hư không, có thể thấy mặt mày của mình, thì thân của Như Lai cũng là thân của ông sao?

Nếu cho rằng cái Thấy của Như Lai là cái Thấy của ông, thân Như Lai là thân của ông thì một thân A Nan có thể thành hai vị Phật sao?

Từ cái chỗ “Thấy bên trong” này mà sanh ra bao nhiêu là suy tính. Cái “Thấy đối với bên trong” đã chẳng thể thành, thì thấy tối không thể gọi là “Thấy bên trong” được. Tuy nhiên, cái "Năng Kiến" ấy nó vốn tự tối, vậy thì ai thấy đó?

Ngài Vân Môn hạ lời:

- Người người tự có quang minh cả. Khi xem chẳng thấy, tối thui thui. Thế nào là quang minh của người người?

Tự trả lời thay rằng:

- Kho bếp ba cửa.

Lại nói:

- Việc tốt chẳng bằng không.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Tự chiếu bày độc sáng,
Vì ông thông một đường.
Hoa tàn cây không bóng,
Khi xem ai chẳng thấy.
Thấy, chẳng thấy,
Cỡi ngược trâu, hề, vào Phật điện.

Dịch:
Tự chiếu liệt cô minh,
Vi quân thông nhất tuyến.
Hoa tạ thụ vô ảnh,
Khán thời thùy bất kiến.
Kiến bất kiến,
Đảo kỵ ngưu hề nhập Phật điện.

Nếu hiểu được chỗ: Cỡi ngược trâu vào Phật điện, thì nói: Thấy tối tức là thấy bên trong, cũng không phải là không đúng!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.24 khách