- 1. Thiền của kẻ phàm.
2. Thiền của ngoại đạo (của đạo sĩ và tu sĩ ngoài Phật giáo).
3. Thiền của Tiểu thừa.
4. Thiền của Đại thừa.
5. Thiền của Tối thượng thừa.
Nói một cách khác, ngoài cái Thiền của phàm nhân ra, người tu hành có thể đạt đến bốn cõi Thiền (tức trình độ phát triển của Diệu Tâm), gọi là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
Phần nhiều ngoại đạo cầu mong đạt được tứ Thiền là cảnh giới giải thoát của bậc tu hành cao nhất của họ.
Phật giáo cũng áp dụng Thiền học, nhưng mục đích là đạt Niết bàn, tức là cái quả vô lậu của người giác ngộ, thoát hẳn ra ngoài vòng quả báo luân hồi. Người đắc Niết bàn là bậc Phật, diệu tâm phát triển đến tột cùng, như nước trong ngần, trăng lồng thấy rõ ràng. Tỉ dụ cho sự phản chiếu muôn sự vật linh động mà mặt nước (tâm) không hề xao động.
Thiền của kẻ phàm phu là cái tâm sáng suốt an tĩnh của người thông minh, có đời sống nội tâm dồi dào. Thiền của nhà tu hành là cái tâm sáng suốt an tĩnh của bậc giải thoát không còn xao động bởi những biến thiên của cuộc đời thế gian.
Thiền của ngoại đạo, dù là bậc Tiên, vẫn còn trong vòng sanh diệt, vì là hữu lậu.
Thiền của Phật nhằm mục đích thoát ra ngoài tam giới (ba cõi), cũng gọi là Vô lậu thiền. Bởi cái Thiền của Phật không cầu được gì hết, không cầu thành Phật, thành Tiên, thành Thánh hay gì gì cả, mà là cái Thiền cầu chân lý, giải thoát hoàn toàn.
Thiền không có nghĩa là một hình tướng, một màu sắc, một tôn giáo hay một giáo lý gì đặc biệt hết cả. Nó chỉ là một danh từ Đạo học để chỉ sự suy tưởng, nghiệm xét, tư duy. Nói nôm na là sự lắng tâm lại cho an tĩnh không cho xao động vì sự vật bên ngoài, hay vì những tình cảm bên trong để suy nghĩ và nhận thật kỹ cái lẽ sống chết của con người và sự sanh diệt của thế giới.
Cái pháp cần học trong Thiền đường này là pháp vô vi. Vô vi là "vô hữu tác vi" (không tạo không làm), ý nói không có một điều gì khá làm, không một điều gì khá mong lấy được. Nếu là "hữu vi" thì có sinh, có diệt. Nếu là "khả đắc" thì có cái "có thể mất"(1).
Bởi vậy, Kinh có câu:
- Đản hữu ngôn thuyết: (Hễ cái gì dùng lời nói ra được)
Đô vô thực nghĩa: (Thì toàn là không có nghĩa chân thực).
Thiền tông ở đây chỉ dạy các ông: Lập tức đảm nhận (trực hạ thừa đương), chẳng cần nhiều lời dài dòng.
Đây là một sự kiện cụ thể:
Một ông tăng đến hỏi Nam Tuyền lão sư: "Đạo là gì?". Lão Sư đáp: "Tâm bình thường là đạo vậy".
Chúng ta thường ngày mặc áo, ăn cơm, ra ngoài làm việc, trở về nghỉ ngơi, không một việc nào là không làm trong đạo. Chỉ vì chúng ta ở nơi nào, trong hoàn cảnh nào, cũng đều chấp trước, cũng đều tự trói cột mình với cảnh ấy, hoàn cảnh ấy, thành ra không biết tâm mình là Phật.
Xưa kia Đại Mai Pháp Thường thiền sư, khi tham vấn Mã Tổ, lần đầu có hỏi: "Thế nào là Phật?" Tổ đáp: "Tâm này là Phật" (Tức tâm tức Phật).
Nghe xong, Sư liền đại ngộ, bèn làm lễ từ giã Tổ, đến ở ẩn tại Tứ Minh Mai Tử Chân Cựu, kết cỏ làm chòi tu hành.
Khoảng giữa triều Trinh Ngươn đời Đường, một vị tăng của pháp hội Diêm Quan (tức Trấn Quốc Hải Xương Viện của Tế An thiền sư), nhân vào rừng tìm đốn cây làm gậy, đi lạc đường đến am Pháp Thường thiền sư. Vị tăng hỏi Pháp Thường:
- Hòa thượng ở đây bao lâu rồi?
- Đã bốn phen thấy núi xanh đổi màu thành vàng.
- Muốn ra khỏi núi, phải nhắm hướng nào mà đi?
- Theo dòng nước mà đi.
Ông tăng về được đến Viện, thuật chuyện lại với Tế An thiền sư. Tế An nói:
- Tại Giang Tây, ta từng thấy một nhà sư, rồi từ đó về sau bặt tin tức. Phải chăng đó là nhà sư mà ngươi vừa gặp.
Tế An bèn bảo vị tăng trở lại núi mời Pháp Thường. Pháp Thường đáp lời mới bằng một bài kệ:
- Thôi tàn khô mộc ỷ hàn lâm
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
Tiêu khách ngộ chi do bất cố
Dĩnh nhân na đắc khổ truy tầm
Nhất trì hà diệp y vô tận
Số thọ tòng hoa thực hữu dư
Cương bị thế nhân tri trụ xứ
Hựu di mao xá nhập thâm xư.
- Cây khô rừng vắng lặng như tờ
Mấy độ xuân về, dạ vẫn trơ
Ngoảnh mặt bác tiều khi gặp gỡ
Khổ công khách chợ há mong chờ.
Che thân sen lá đầy đầm rộng
No bụng tòng hoa mấy cội xơ
Am cỏ chẳng may người biết được
Rừng sâu phen nữa lại thiên cư.
(Chánh Trí Mai Thọ Truyền dịch)
- Hồi Hòa thượng gặp Mã Đại sư, đã lãnh hội được pháp gì mà đến trụ núi này?
Sư đáp:
- Đại sư đã hướng về ta mà nói: Tâm này là tâm Phật! Ta bèn trú vào lời nói ấy.
Vị tăng bảo:
- Gần đây, Phật pháp của Đại sư có đổi khác.
- Khác như thế nào?
- Ngài lại nói: Phi tâm phi Phật.
- Cái lão già ấy sắp làm loạn thiên hạ rồi đấy. Cứ để cho lão tha hồ mà "Phi tâm phi Phật". Còn ta thì chỉ biết "Y tức tâm tức Phật" (Tâm đây mà Phật cũng đây).
Vị tăng trở về kể chuyện lại cho Mã Tổ. Tổ nói: "Trái mai đã chín rồi vậy! (Ý nói: Pháp Thường thiền sư đã thành công rồi!).
"Trái mai" đây là ám chỉ Đại Mai Pháp Thường thiền sư đó. Do câu chuyện trên, ta biết được người xưa hiểu biết sâu xa, quyết liệt, vững chắc như thế nào và họ giác ngộ một cách trực tiếp, vững vàng, giản dị dường nào.
... Hư Vân Hòa thượng tiếp nối:
Chỉ vì các ông và tôi căn cơ lậu hẹp, vọng tưởng quá nhiều, nên bất đắc dĩ các Tổ phải dạy Tham thoại đầu vậy.
- Vĩnh Gia thiền sư nói:
Chứng thực tướng vô nhân pháp
Sát na diệt khước A Tỳ nghiệp
Nhược tương vọng tưởng cuồng chúng sanh
Tự triêu bạt thiệt trần sa kiếp.
- Chứng được thực tướng, không còn chấp nhân chấp pháp nữa
Thì trong sát na diệt trừ được nghiệp A Tỳ
Nếu tôi dùng lời nói mà gạt chúng sanh. Thì đó là tự tôi chiêu cái tội bị cắt lưỡi trong một số kiếp nhiều như cát bụi vậy.
Cao Phong Diệu Tổ cũng nói:
Nay, chúng ta tham khán thoại đầu, điều cốt yếu là đưa câu thoại đầu ấy ra ngó cho tới đáy, đến khi nào khám phá được thoại đầu mới ngừng.
Cao Phong Diệu Tổ còn phát nguyện như sau: "Nếu có người tham khán thoại đầu, một thoại đầu mà không khởi hai niệm, như vậy suốt trong bảy ngày mà không ngộ đạo, Ta cam chịu rơi vào địa ngục cắt lưỡi đời đời kiếp kiếp" (Nhược hữu nhân cử nhất thoại đầu bất khởi nhị niệm, thất nhật chi trung, nhước bất ngộ đạo, ngã vĩnh đọa bạt thiệt địa ngục).
...Chúng ta lòng tin không chân thật, tu hành không quyết tâm, vọng tưởng không gạt bỏ được! Nếu một lòng tha thiết thì thoại đầu không bao giờ là không lãnh hội được, và cũng không cho nó tùy tiện lẩn mất được.
- Quy Sơn Tổ sư nói:
Sinh sinh nhược năng bất biến: Đời đời nếu không thối chuyển
Phật giai quyết định khả kỳ: Quả Phật quyết định có kỳ.
Vậy chúng ta phải trực đương như thế nào đây?
Thực ra, cốt yếu chỉ có một việc thiết yếu trước hết là cắt bỏ cái tâm sanh tử, nghiền ngẫm câu thoại đầu, một lòng tha thiết bám chặt thoại đầu (chiếu cố thoại đầu), không kể đi đứng nằm ngồi, ngay cả khi đi tiểu tiện. Từ sáng đến tối cứ quán (Thì dụ quán chữ "Ai" trong caai "Ái niệm Phật" chẳng hạn), cho đến khi nó sáng tỏ như mặt trăng thu rọi xuống mặt hồ yên lặng, chiếu rõ ràng minh bạch, không còn rơi vào hôn trầm (ngủ gục), không còn rơi vào trạo cử (tán loạn), thì còn lo gì có ngày không được bậc Phật.
Nếu như hôn trầm có đến, hãy mở mắt lớn ra, thẳng lưng lên thì tinh thần tụ hội trở lại, phấn chấn và nổi mạnh lên. Ngay lúc ấy, nắm lấy thoại đầu cho chặt, đừng buông lõng, cũng đừng nhẹ nắm. Nắm nhẹ quá thì dễ rơi vào chỗ tâm không và hôn trầm. Rơi vào chỗ tâm không thì chỉ biết được một chút ít thanh tịnh và cảm thấy một ít khoái lạc thôi.
Chính trong lúc ấy, chúng ta phải cẩn thận đừng để quên mất câu thoại đầu, thì mới có thể tiến xa hơn "đầu cây sào" mà chúng ta vừa leo lên tới được đó.
(Đầu sào tiến bước) Tham thiền giống như người leo lên cây sào cao, đứng sựng, rất khó khăn...! Bách xích can đầu: đầu sao trăm thước, là hoàn cảnh lúc ấy đó!
- Tiến xa hơn đầu cây sào! (hay đầu sào tiến bước)
Nhưng khi chúng ta nắm vững quyết tâm, quán sâu, nắm chặc lấy thoại đầu... và nhân lúc sáng suốt ấy mà nhìn thấy được trong cái thô có cái tế, trong cái tế có cái thô (ý nói rằng: những cái lớn nhỏ trong thân tâm mình, lớn thì dễ thấy, nhỏ vụ vặt thì khó thấy hơn, nhưng ta lại vẫn thấy được rõ ràng như thường), thì mới có thể là cho công phu tu tập thêm sức mạnh, và tự ta từ đầu sào trăm thước bước đi xa hơn mà không có gì xảy ra cả.
Đó là "bách xích can đầu tiến nhất bộ", rồi cứ như thế mà đi mà tiến!
Nếu vững vàng, lơ đễnh thì lạc vào "không vọng", tức là tâm trống rỗng, không nhớ đến một việc gì, chẳng đạt được đến cứu cánh.
Còn như lỏng lẻo thoại đầu, thì vọng tưởng dễ kéo đến rần rộ, xâm nhập. Vọng tưởng một khi nổi lên, thì khó mà hàng phục trạo cử (tán loạn).
Tu tập như thế mới có thể ra công đắc lực, mới có thể khiến động, tĩnh như một được.
Trong lúc ngồi Thiền, hành giả tuyệt đối không nên đưa thoại đầu lên cao quá. Như thế thì dễ bị hôn trầm, cũng đừng để nó ngang ngực, vì thế ngực sẽ đâu, cũng đừng đưa nó xuống bụng, vì đặt ở bụng thì bụng đâu, cũng đừng ngó xuống thấp hơn, để khỏi mắt bệnh trướng (bụng to), rồi từ đó lạc vào âm cảnh, nhiều bệnh lặt vặt sẽ phát sanh.
Chỉ cần giữ tâm cho thật bình (bình tâm), hơi thở im lặng điều hòa, nhẹ nhàng (tĩnh khí), và nhắm chặt chữ "Ai" (trong câu thoại đầu "Ai niệm Phật") mà sáng nhìn chữ ấy trong trạng thái của gà ấp trứng, mèo rình chuột.
Khi quán chiếu đắc lực, cái sáng nhìn trở thành một sức mạnh thì mạng căn tự nó dứt bặt.
Pháp này, lúc mới bắt đầu dụng công thực hành, đương nhiên không phải dễ đâu. Phải theo thời khắc dụng tâm cho nhiều mới được.
Tu hành như lấy lửa trong đá. Cần phải có phương pháp. Bằng không, đập bể đá, phồng tay, chảy máu... mà lửa không có.
Phải biết cách: đặt phía dưới cục đá một ít bổi, bùi nhùi dễ bắt lửa, rồi dùng dao đánh lửa kẻ mạnh vào cục đá, ánh lửa trong đá văng ra, rơi vào bổi, nhân bổi bùi nhùi cháy mà lửa có vậy.
Chúng ta nay biết rõ Tâm là Phật, nhưng vì không thừa nhận được, cho nên mới mượn thoại đầu làm con dao lấy lửa. Thuở xưa, đức Thế Tôn "đêm thấy sao mai sáng, bỗng nhiên gặp đạo" (Dạ đổ minh tinh, hoát nhiên ngộ đạo) là vậy đó.
CHÚ THÍCH:
(1) Hữu vi là cái có thể làm được, khả đắc là những cái có thể lấy được. Làm được, lấy được thuộc về vật chất, hữu hình, hữu tướng. Thiền tông không nói chuyện với vật chất, mà kêu gọi là tâm linh, là cái vô hình vô tướng.