Với ý chí cương quyết, trí tuệ viên thông, đức Từ Bi vô lượng, lòng Bác Ái vô biên, tinh thần duy tha phục vụ với tư cách thoát tục hy hữu, khi ngài vứt bỏ cuộc đời vương giả để bước chân trên đường đạo hạnh, với đức độ trọn lành, tâm lực thanh tịnh, với những phương pháp gương mẫu áp dụng trong sự hoằng dương giáo lý, và sự thành công của ngài với bao nhiêu đức tính tốt đẹp ấy, đức Phật đã được một phần năm (1/5) nhân loại ngày nay tôn trọng như một đấng Giáo chủ Tối thượng.
Mặc dù đã hơn hai ngàn năm trôi qua, từ khi đức Phật nhập Niết Bàn, giáo pháp cao siêu của ngài vẫn hoàn toàn bảo tồn nguyên vẹn trong các quốc gia Phật giáo. Năm 1983 dương lịch, nhiều vị A la hán đã kết tập và bắt đầu ghi chép thành ba Tạng Kinh (Tipitaka) những kim ngôn của ngài đã truyền dạy khi còn tại thế. Ba Tạng Kinh ấy được toàn vẹn lưu truyền đến nay và nếu kể về lượng thì độ bằng mười một lần Thánh Kinh Cựu Ước.
Chính giáo pháp cao siêu ấy của đức Phật phối họp với Nho giáo, đã góp phần cương lĩnh lớn lao trong sự phát triển nền văn hóa Việt Nam.
Thật vậy, cũng như bao nhiêu quốc gia Phật giáo khác trong cõi Á Đông, dân tộc Việt Nam đã trưởng thành dưới bóng Từ Bi của đức Phật.
Phật giáo thích hợp với mọi người, là một di sản tinh thần của Tổ tiên lưu truyền cho đoàn hậu tấn Hồng Lạc.
Phật giáo là một hệ thống triết học, đạo đức... chủ trương hòa bình, khoan dung, đại độ và xây dựng nền tảng trên lý trí. Phật giáo không dòi hỏi một đức tin mù quáng, không đặt ra những tín điều để bắt buộc người khác phải nhắm mắt tin theo.
Phật giáo không dạy những tín ngưỡng dị đoan, không khuyến khích những việc cúng tế cầu khẩn, không nhìn nhận tha lực nào, dầu là người hay thần thánh có quyền xá tội ban phước cho ai. Trái lại, Phật giáo chỉ dẫn cho những ai vui lòng nghe theo một phương pháp quí báu để tự tạo những tư tưởng trong sạch, hầu tiến tới chỗ hoàn toàn trong sạch cho phát sinh trí tuệ siêu việt và sau cùng tự giải thoát khỏi vòng luân hồi khổ não.
Phật giáo không phải là một hệ thống chủ trương tôn sùng một đấng thiêng liêng nào. Trong Phật giáo, đức tin mù mờ được thay thế bằng một niềm tin tưởng căn cứ trên suy luận xác lý. Niềm tin tưởng mà người Phật tử thành kính đặt nơi đức Phật chẳng khác nào niền tin tưởng của một bệnh nhân đối với vị bác sĩ, của trò đối với Thầy.
Đã nương tựa dưới bóng của đức Phật và sùng kính ngài như đức Tôn sư Vô thượng, hướng dẫn mình trên con đường duy nhất đến nơi hoàn toàn sáng suốt, người Phật tử chẳng hề bó tay qui hàng, chịu làm nô lệ cho một lý thuyết nào mà luôn luôn dùng lý trí suy xét để phân biệt chánh tà.
Một Phật tử chân chánh không bao giờ nghĩ rằng cần phải đặt đức tin nơi đức Phật mà được trở nên trong sạch, sáng suốt.
- Trong sạch sáng suốt hay không là tùy nơi ta, do ta mà thôi.
Người Phật tử hoàn toàn tự do rèn đúc ý chí và phát triển tri tuệ mình.
Đối với ai muốn tìm chân lý, đức Phật thường khuyên chẳng nên chấp nhận một điều nào, chỉ vì điều ấy do một nhân vật quan trọng hoặc có uy quyền đề xướng... mà phải luôn luôn dùng lý trí xét đoán để phân biệt chân giả, tà chánh... rồi sẽ quyết định phải tin hay không...
Điều quan trọng đệ nhất của Phật giáo là đặt tất cả sự hiểu biết trên lý trí và khi nhận thức được lẽ phải..., thì mau mau đem ra thực hành.
Mặc dù người Phật tử luôn luôn nghiêm trì đạo hạnh đúng theo tinh thần đạo giáo của mình, và xem đó là hoàn toàn hợp lý, và cao đẹp hơn các đường lối khác, nhưng vẫn trung thành với tôn chỉ Phật giáo, họ chẳng hề bài xích việc thờ phượng, lễ bái, khẩn cầu...
Đối với hạng ngời kém học thức, lòng tin tưởng nương tựa nơi vật hữu hình, và nghi lễ bề ngoài sẽ làm dịu bớt phần nào sư khô khan của lý trí.
Trong Phật giáo có phần dạy về tâm lý đơn giản, dễ hiểu cho quảng đại quần chúng mà cũng có phần cao siêu cho hàng trí thức bồi đắp nền văn hóa cho thêm phong phú.
Du khách phương xa đến viếng một cảnh chùa ở Á Châu, nếu không kịp quan sát kỹ có thể có những cảm tưởng sai lạc cho rằng Phật giáo chỉ gồm có những nghi thức lễ bái, hoặc một lối sống dị đoan theo tập tục thờ phượng sùng kính những tượng đó, hình nộm, cây cối...
Thật ra, đã chủ trương khoan hồng quảng đại, Phật giáo không hoàn hoàn bác bỏ những hình thức bên ngoài, vì nó cần thiết cho đại chúng.
Không cần phải tìm kiếm đâu xa, trong những buổi lễ thường ở các chùa, chỉ nhìn dáng điệu của tín đồ thành tâm tôn kính đức Phật với niềm tin tưởng bộc lộ trên gương mặt họ... ta cũng có thể đoán được là họ sẽ thất vọng, nếu họ không được trải lòng ra trong những nghi thức cụ thể ấy.
Cũng nhờ lễ bái cúng dường mà đức tin của họ vững bền hơn.
Khi khấu đầu chiêm bái một tượng Phật, người Phật tử chân chánh thành kính ngưỡng vọng tinh thần siêu việt của đức Phật, mà vốn biết tượng ấy chỉ là một tượng trưng thôi và chẳng hề khấn vái cầu xin một ân huệ tinh thần hay vật chất nào.
Trước pho tượng, người Phật tử cảm tượng mình đang quì trước mặt đức Phật, đương chiêm ngưỡng ân đức của ngài và lấy đó làm mục tiêu cứu cánh mà mình phải quyết tâm tiến đạt cho kỳ được.
Đức Phật không mong được lễ bái cúng dường. Trái lại, ngài tha thiết ước ao các tín đồ đem giáo lý của ngài ra thực hành. Đã có lần ngài nói: Người đệ tử tốt nhất không phải là người tôn sùng bản thân ngài, mà là người thực hành đúng theo lời mà người chỉ dạy.
Ta rất có thể thực hành giáo lý của Phật mà khỏi phải khép mình trong hình thức bề ngoài. Trong Tam Tạng Kinh, không thấy có chỗ nào dạy pải khẩn cầu, van vái dể xin một điều gì.
Đức Phật thường khuyên ta nên tinh tấn chuyên trì Thiền định, vì nhờ Thiền định mà ta có thể tự chinh phục được bản thân để khép mình vào nếp sống có kỷ cương, tự kiểm soát lấy thân tâm để dọn mình cho trong sạch.
Cũng nhờ Thiền định mà ta được giác ngộ hoàn toàn. Thiền định không phải là đặt mình vào một trạng thái mơ màng yên lặng, hoặc một tâm trạng rỗng không, mà là một cố gắng linh động tích cực. Thiền định là một lương dược tẩm bổ cho tâm lẫn trí, là phần tinh túy của Phật giáo.
Nhiều người không thấu được phần quan trọng của pháp Thiền định, quá vội vả cho rằng Phật giáo là một tôn giáo tiêu cực và thụ động. Những lời phê bình và căn cứ ấy trái hẳn với sự thật.
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên trên thế gian có những hành động cực kỳ tích cực và đệ tử của ngài cũng đã noi gương ngài: không một đồng tiền dính túi, chư vị A la hán xưa kia, cũng như các đệ tử trung thành hiện nay của đức Phật, đã nhẫn nại đi đây đó, cùng khắp phương trời xa lạ để hoằng dương chánh pháp, không hề mong được đền ơn đáp nghĩa gì.
"Hãy cố gắng, cố gắng lên, tích cực hoạt động!" Đó là lời di chúc của đức Phật.
Ngài khuyên chúng ta ba điều:
- "Không làm ác", có nghĩa là làm thế nào cho ta khỏi phải là một gánh tội khổ cho ta và cho kẻ khác.
- "Hãy làm lành", có nghĩa là làm thế nào cho ta trở thành một nguồn phước báu cho ta và cho kẻ khác.
- Và sau cùng "Hãy giữ tâm luôn trong sạch" là một lời khuyên vô cùng khẩn yếu.
- "Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý!"
- "Chư ác mạc tác
Các vị xuất gia bị ràng buộc trong Luật Tăng già, những chỉ phải tích cực tuân hành trong phạm vi đạo hạnh mà thôi. Bên ngoài, hàng tại gia cư sĩ có thể phục vụ tôn giáo và quốc gia cùng toàn thể chúng sanh theo tôn chỉ hòa bình bác ái của Phật giáo.
Giới luật trong Phật giáo có qui định một lối sống cho các bậc xuất gia và một lối khác cho hàng tại gia.
Nhưng theo một nhận thức khác, toàn thể Phật tử phải là những chiến sĩ can đảm. Người Phật tử cũng chiến đấu, nhưng không phải bằng súng đạn. Họ cũng chém gết sát hại, nhưng họ không chém giết sát hại nhưng sinh linh vô tội, những đứa trẻ ngây thơ. Người Phật tử chiến đấu với bản thân mình, vì chính con người của mình là kẻ thù nguy hiểm nhất. Tâm người là kẻ thù lợi hại nhất mà cũng là người bạn tốt nhất!
Không dung túng, cũng không mảy may mến tiếc, người Phật tử tiêu diệt, bứng xới tận gốc tất cả dục vọng đang chế ngự cõi lòng mình. Và phương pháp hữu hiệu nhất là vun trồng bồi đắp đức hạnh. Trong hàng Phật tử, ai thích tranh đấu lẻ loi, được hoàn toàn tự do chọn lấy đời sống độc thân yên tĩnh, để lặng lẽ diệt lần dục vọng của mình.
Các bậc xuất gia xa lánh phồ hoa đô thị là một thí dụ. Đối với hạng người biết tri túc, đời sống cô độc quạnh hiu là một diễm phúc.
Kẻ nào tìm thú vui trong sự chiến đấu của đời sống thế tục, cũng có thể lãnh lấy trách nhiệm gánh vác quyền lợi nước nhà. Mục đích của họ là tạo một xã hội tốt đẹp, để mọi người chung sống trong hòa bình, trong tình huynh đệ, sống một cuộc đời của người công dân lý tưởng.
Phật giáo không dạy ta phục tùng sợ sệt một vị thần linh nào, Phật giáo không xác nhận thần quyền. Phật giáo không bao giờ hô hào rằng chỉ có mình là nắm được chân lý. Phật giáo cũng không bao giờ chống đối tôn giáo khác.
Đức Phật đã nâng cao phẩm giá con người, thay vì đặt lên đầu con người một vị thần linh tối thượng.
Không chủ trương sợ sệt một thần lực huyền bí, Phật giáo đặt nền tảng trên những sự kiện thực tế hàng ngày mà mọi người có thể chứng nghiệm và kiểm soát: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Và con đường điệt khổ.
- Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Như vậy, ta thấy riêng Phật giáo không bi quan, cũng không lạc quan..., mà để "phục vụ con người".
Bốn chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo của Tứ Diệu Đế, thì Khổ, Tập, Diệt là phần triết lý.
Phần thứ tư là Đạo, đó là phần thực hành, phần phương châm thực nghiệm triết lý ấy trong đời sống hàng ngày.
Ngoài đó ra, còn một học lý căn bản nữa là: Nghiệp báo và Tái sanh - tức là luật Nhân Quả.