Bạn ơi,
Đọc thư bạn với nhiều cảm động đó, bạn à. Dễ gì mà thoát khỏi cặp mắt sắc sảo của người công dân Bến Ngự như bạn, chưa kể lời "hăm dọa khám phá" thực hư điều tôi đã "cung khai". Kể ra nói thế không quá đáng vì trong gần tám trang giấy viết thư, bạn đã khéo léo cật vấn thân thế, ráng tìm cho ra sơ hở trong câu trả lời của tôi, để rồi bạn chỉ "giáng" cho lời "cảnh cáo" như trên. thì thật ra, bạn còn nương tay lắm, bạn vàng à! Chung qui bạn vẫn chưa tin một cách rốt ráo, hoàn toàn điều tôi đã nói. Chuyện đi tu sao lại có thể "khởi động" đơn giản như vậy được. Giản dị như việc bạn đặt bút chấm câu sau khi đã nhíu mày vì cạn ý!
Thôi thì, tôi cũng chìu bạn lần nữa. Để tôi cố nhớ lại xem, ngoài hình ảnh chú Pha còn có gì nữa không. À, chắc là có. Tuồng như đêm đó tôi khóc thật nhiều, dù chỉ khóc một lần thôi trong sáu tháng trời ở trại tỵ nạn khi nhớ đến cha mẹ, anh em. Bạn đừng cười về tính mềm yếu của tôi nhe, lúc đó tôi chưa di.... tu mà.
Khi ấy là một ngày đầu tháng 5 năm 1975.
Giựt mình tỉnh giấc, tôi dụi mắt và mơ màng không biết mình đang ở đâu. Khung cảnh chung quanh lạ hoắc, toàn một màu trắng với giường sắt, nệm bông, khác hẳn tháng trước, tôi còn nằm trong lô cốt cạnh giao thông hào, với bao cát chất cao, với nghọn đèn mờ mờ không thấy rõ bàn tay. Phải một lúc sau, tâm trí của tôi mới làm việc trở lại và tôi nhớ ra là mình đang ở trại tỵ nạn Ft. Chaffee thuộc Tiểu Bang Arkansas của nước Mỹ. Ôi! Nghìn trùng cách trở rồi!
Và tôi bắt đầu khóc. Ban đầu tôi chỉ khóc thầm thôi vì ngại đánh thức anh Lập, bác Vạn bên cạnh đang ngủ ngon. Từng giọt nước mắt chảy ra, lăn dài trên má, ướt đẫm cả chiếc gối, thấm vào môi thấy mằn mặn. Tôi để mặc cho cảm xúc tuôn trào. Nghĩ về ba mẹ tôi đang ở bên kia bờ Thái Bình, cả một đại dương cách trở, tôi càng tủi thân và nước mắt ứa ra, không kềm chế nổi. Tôi khóc lớn, không kể gì nữa cả!
Có lẽ tôi phải giải thích cho bạn biết tại sao. Mới chiều hôm trước, khi nhìn tấm bản đồ ở văn phòng hội Hồng Thập Tự, định được vị trí của mình đang đứng và xứ Huế xa xăm, tôi đã ngậm ngùi. Huống hồ, ý thức hệ của hai bên hoàn toàn chống đối nhau thì ngày về kể như không bao giờ có được. Bên này, tôi chỉ một thân một mình, còn ba mẹ tôi đang ở bên kia. Ai từng nói, tử biệt đã là một nỗi đau khổ lớn của kiếp người, thì chuyện sinh ly cũng làm mình khổ đau không kém. Nghĩ đến đó, lòng bỗng chùng xuống.
Một mình đếm bước về phòng, tôi viết dòng chữ dưới đây vào quyển sổ tay:
Trời ơi! Mất hết rồi. Hệt như tiếng kêu bi thương của một con nhạn lạc đàn. Quả thật, tôi mất hết rồi, bạn ơi, vì không có ba mẹ thì tôi sống để làm gì, cuộc sống còn có ý nghĩa gì?
Từ nhỏ, tôi đã được dạy dỗ là phải hiếu thảo với cha mẹ. Câu nói
"Trai thời trung hiếu làm đầu" như một câu kinh nhật tụng mà tôi trì tụng hàng ngày. Rồi lớn lên, dù có đi lang thang xóm trên làng dưới hoặc đóng quân giữa núi rừng, tôi vẫn mang trong lòng một tâm niệm thiết tha, đó là phụng dưỡng cha mẹ cho trọn đạo làm con. Thế mà, biến động xảy ra làm cho tôi lạc mất gia đình. Mất gia đình thì làm sao tôi có thể gần gũi để phụng dưỡng hai đấng sanh thành? Tôi suy nghĩ như vậy mà thấy tuyệt vọng vô cùng, Vì vậy, tôi khóc.
Tôi khóc sướt mướt, như cha chết, mẹ chết. Có lúc tôi nắm chặt song sắt của chiếc giường và muốn bẻ gãy nó ngay! Bao nhiêu tủi cực trong lòng, dồn nén từ hai tháng trước có dịp tuôn trào ra khỏi "hai cửa sổ tâm hồn" của tôi. Ngày mất Huế, tôi theo đơn vị, cứ một mạch đi về phía Nam. Tâm trí bận rộn với chuyện thoát hiểm, nên chẳng có lúc nào nghĩ đến gia đình. Đến bây giờ, đã bình an trên xứ người, nên nhớ thương, tiếc nuối bỗng trào dâng lên.
Khóc đến độ mệt lả người, tôi thiếp đi khi nào không hay. Nhưng cũng từ đó, tôi bắt đầu tìm hiểu đạo Phật và ước mong tìm ra câu giải đáp, vì sao tôi không thể kề cận, nuôi dưỡng ba mẹ tôi dù tôi rất muốn? Điều tôi mong ước có gây thiệt thòi hay đau buồn cho ai đâu? Tôi cũng chỉ muốn làm con người hiếu thảo, vậy mà cũng không được. Nói ra, bạn cũng đừng chê tôi, chứ vào thời điểm bấy giờ tôi chưa hiểu gì về giáo lý vô thường cả.
Cho đến hơn một năm sau, khi đã được đọc một số sách về đạo Phật, cùng lúc có đôi chút thực tập, tôi mới nhận ra: quả thật cuộc đời của con người bất định và mỏng manh. Có những cái mà mình tưởng nắm vững không rời, những mong ước mình tưởng có thể thực hiện trong tầm tay, vậy mà, chỉ trong thời gian thật ngắn, cái sở hữu không còn mà điều mong ước cũng tan tành trong khói lửa.
Ý tưởng báo hiếu, đền ân cha mẹ cứ lảng vảng trong tâm trí tôi. Tôi cho rằng, nếu không làm được điều trên thì cuộc đời mình thiếu sót một bổn phận rất lớn. Cho đến một hôm...
Bạn đừng tưởng là tôi... hoát nhiên đại ngộ dưới chân cầu Golden Gate! Không, suốt hai năm đầu tiên, tôi đi học Anh văn và làm thêm việc quét dọn trường để kiếm sống. May mắn tôi biết thư viện của đại học Berkeley có một section sách tiếng Việt, tôi mừng như bắt được vàng. Sáng đi học, chiều đọc sách, đời sống tâm linh của tôi từ từ có sự biến chuyển. Tôi tình cờ bắt gặp trong thơ sự giải bày về lẽ vô thường của cuộc đời:
- Cuộc thế mơ màng giấc lợi danh
Được thua gì cũng chốn mê thành
Ruộng dâu muôn đám huờn thương hải
Lầu tía ngàn căn biến lộ hành.
Tóc bạc bao giờ thay tuổi trẻ
Da dùn há dễ trở mày xanh
Trò đời nghĩ lại, chao ôi, ngán!
Cửa Phật chi bằng pháp bất sanh.
Pháp bất sanh của nhà Phật, có đúng là như vậy chăng? Nhiều đêm tôi vật lộn với những ý nghĩ mâu thuẫn. Hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, cơn suy tư tiếp diễn trong đầu óc người thanh niên xa nhà. Cái gì mới là sự thật? Có thật cuộc đời là vô thường? Bây giờ mình khỏe thế này, đến khi bệnh hoạn, thân xác mình sẽ còm cõi, tiêu ma? Nghĩ đến thế, tôi cố đánh lừa chính mình, bạn à. Bậy nào, chỉ có lúc mình đi lính, đánh giặc mới bị thương vong. Chứ bây giờ dang ở Mỹ, mình làm gì mà thân thể bị tổn hại, huống hồ bạn bè đã thường gọi mình là "long đất", nghĩa là hiền như cục đất, ai thèm đánh lộn với mình mà sợ. Chắc là họ nói vậy để dọa thiên hạ thôi! Tôi dám nghĩ như vậy đó, bạn à. Sau này xét lại mới thấy mình lầm, chút nữa bị Bụt phạt quỳ hương rồi. Nhưng cũng may, một hôm đọc một tập giáo lý mỏng do Trang Nghiêm cư sĩ biên soạn, có đoạn nhắc đến sự phù du, ngắn ngủi của kiếp người:
- Hơn sau mươi năm
Thoáng dường xuân mộng
Tỉnh ra thôi một giấc hoàn lương!
Phù hoa bóng huyễn
Có mấy phong quang?
Nhìn xem đã rõ...
Cắt mối tơ vương
Mặc kẻ lao xao chốn hí trường!
Lầu xanh núi biếc
Bổn phận lo lường
Tùy duyên thong thả
Rửa bát đốt hương
Đem tâm quy hướng cõi thanh lương
Mênh mang biển nghiệp
Đau khổ bao dường
Quay đầu lại thấy thêm thương!
Lập tức tâm trí tôi bỗng khựng lại. Đây là kinh nghiệm của một người trên sáu mươi, lớp tuổi cha mẹ mình, không lẽ lại nói một điều không thực. Tôi càng giật mình thêm khi suy nghĩ về biển nghiệp mênh mang vô bờ của tôi và của mẹ tôi. Phần tôi, để dịp khác hãy bàn; bây giờ xin nói đến những nghiệp báo mẹ tạo có liên can ít nhiều đến cái thớt sau hè nhà.
Bây giờ, tôi xin bạn đừng lim dim cặp mắt, hãy nghe tôi nói một cách nghiêm chỉnh bạn nhe. Vì đây không phải chỉ là chuyện tạo nghiệp của một người; hơn nữa, xin bạn hãy tập tánh "lắng nghe", cần dứt bỏ thói quen nhắm mắt và chỉ nghe chừng nửa lỗ tai.
Bạn biết không, từ nhỏ tôi đã có máu giang hồ vặt, nghĩa là thường bỏ nhà đi hoang. Khoan nghĩ bậy cho tôi, hỡi bạn vàng. Đi hoang đây, có nghĩa là khi nổi máu "Kiều Phong", tôi vội nhét vào mình vài bộ quần áo, kiếm chỗ ngao du vài tuần, rồi hoặc bị ba tôi tìm bắt về, hoặc tự động hồi chánh... vô điều kiện. Còn thêm tật ngủ hoang nghĩa là thích ngủ nhờ nhà hàng xóm, nhiều đêm mưa xuống, nhà dột, bị ướt như chuột lột. Tôi bất kể lời khuyên can, chứng nào tật đó dù phải ăn nhiều trận đòn thập tử nhất sanh do ba tôi trừng phạt. Mẹ tôi chỉ khóc thầm, dỗ dành. Tôi biết cả ba lẫn mẹ đều thương tôi, rất nhiều, nhưng mỗi người đối xử một cách.
Mẹ tôi là người lo lắng cho gia đình, quán xuyến mọi việc lớn nhỏ, từ vụ lúa ngoài đồng cho đến việc trồng khoai, nuôi gà, ngày đơm tháng kỵ của gia đình. Bao nhiêu công việc đều do mẹ tôi một tay trù liệu, bạn à.
Có một kỷ niệm làm tôi nhớ mãi tình thương của mẹ. Bữa đó là ngày tôi về thăm nhà như thường lệ, vì tôi trọ học ngoài thành phố. Buổi tối, bữa cơm gia đình rất đầm ấm, với các em ngồi quanh mâm cơm nhà nghèo. Đêm đó có trăng, chiếu sáng chỗ mẹ tôi ngồi. Ăn uống xong, mấy đứa em gái dọn dẹp, tôi được "ưu đãi" cho đi ra sân chơi (khỏi rửa chén). Đến giờ ngủ, tôi vừa nằm xuống thì nghe tiếng mẹ tôi nói nhỏ bên tai:
- Xuống bếp, mạ cho cái ni.
Tôi rón rén ngồi dậy, không biết mẹ mình sẽ cho vật gì, mà sao có vẻ "bí mật" như vậy. Khi xuống nhà sau thường là chỗ dọn cơm thì thấy mẹ tôi chờ sẵn. Tiếng mẹ nói vừa đủ nghe:
- Đây nì, mạ chừa lại cho con đây. Ăn đi, mạ biết con ưng cơm cháy nên mạ dấu mấy đứa em mi.
(Mẹ tôi nói, mẹ biết tôi thích cơm cháy, nên từ hồi chiều, đã dấu mấy đứa em để chừa cho tôi mấy miếng cơm cháy đó). Quả thật, tôi có tính thích ăn cơm cháy (sau này, có lần, tôi bạo gan sánh ngang với thú đọc thơ). Mẹ tôi biết tính tôi, còn tôi không khách sáo gì cả. Vả lại, cũng không cảm thấy ngượng ngùng gì vì chiều nay, khi về nhà, tôi đã mua quà cho các em tôi. Ba ổ bánh mì, cắt đôi, một đứa một nửa. Tôi thưởng thức miếng cháy. Mẹ tôi ngồi bên cạnh. Miếng cháy ngoài bữa cơm thật là ngon tuy rằng sợ cả nhà biết, phần khác thì thấy trong lòng dâng lên một cảm giác khó tả: đó là tình thương của mẹ. Bạn biết không, nhà tôi nghèo nên việc đi học của tôi đánh đổi lấy nỗi lo toan vất vả của mẹ. Nào tiền học, nào tiềm cơm hàng tháng trả cho người bà con. Dù phải chạy ngược, chạy xuôi vay mượn, mẹ tôi vẫn không phàn nàn, chỉ mong cho tôi có được mớ chữ với đời. Có thể tôi đã quên hết những bài đại số, khoa học thường thức ở nhà trường, nhưng tôi vẫn nhớ mãi bài học tình thương từ trái tim của mẹ.
Chuyện miếng cơm cháy nửa khuya và hình ảnh người mẹ ngồi kế bên đã không rời tôi kể cả khi bôn ba theo đơn vị di tản về Nam. Sau này, khi đọc kinh Vu Lan vào mùa báo hiếu mỗi năm, hình ảnh bà Thanh Đề với nghiệp báo ngạ quỷ làm tôi chợt nhớ đến tấm thớt của mẹ sau nhà.
Thớt là một tấm gỗ dùng để mổ cá, làm thịt gà, vịt. Tấm thớt nhà tôi có từ hồi nào, tôi không rõ. Có điều, tôi nhớ nó mòn vẹt hẳn ở giữa. Vết dao ngang dọc hằn rõ trên mặt thớt. Đó là nơi nhiều sinh vật bị kết liễu dưới tay mẹ tôi. Điều tội nghiệp cho mẹ là phần của mẹ, nhiều khi, chỉ là một miếng, còn lại dành cho chồng con, bạn hữu nhưng nghiệp báo thì mẹ tôi phải gánh chịu một mình. Lòng đau như cắt, bạn à. Tôi mà không quyết chí đi tu thì làm sao tìm phương cứu mẹ được đây, hỡi bạn? Huống chi mọi việc ở đời chẳng như bọt nước, như huyễn ảnh mà cụ Tiên Điền đã nhắc nhở:
- Kiếp phù sinh như bào, như ảnh
Có chữ rằng vạn cảnh giai không
Ai ơi! Lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Mùa Vu lan về, tôi không muốn bạn trầm tư về sự phù du của kiếp người. Bởi có bạn hỏi nên tôi mới trả lời mà thôi. Đó, cơ sự xuất gia của tôi như vậy đó, bạn đã vừa ý chưa?
Lễ Vu Lan vừa được tổ chức tuần rồi, bạn à. Mai mốt đây, tôi còn đi dự thêm vài ba buổi lễ tổ chức ở địa phương khác. Lễ rằm tháng bảy trong năm đã đi qua, nhưng tôi cảm thấy dư ba mùa báo hiếu còn bàng bạc trong chùa, trong tâm hồn. Y như cách giải thích của quý Thầy giảng sư thuở nào. Thầy nói: chúng ta cử hành lễ Vu Lan một lần trong năm (tôi nhắm mắt tưởng tượng thấy ngài cao giọng nói tiếp), nhưng chúng ta phải ý thức và thực thi tinh thần báo hiếu của ngày lễ trong suốt cả đời, từ ngày này qua ngày khác. Ngoài việc đồng ý về lời dạy trên của Thầy, tôi thấy không gì bằng kể thêm cho bạn nghe câu chuyện liên can cái thớt sau hè của mẹ tôi, là vật ám ảnh mạnh mẽ tâm trí tôi từ khi tôi bắt đầu hiểu thế nào là nghiệp báo.
Bạn biết không, hồi đó vào khoảng năm 1976, dịp cuối đông, mỗi lần nhớ nhà, tôi lại hình dung đến tấm thớt gỗ cũ kỹ, mòn vẹt đặt cạnh cái áng đựng nước bằng xi măng nơi sau nhà. Chưa vào chuyện nhưng chắc bạn lại thắc mắc. Duyên cớ gì lại nhằm nhớ nhà vào dịp cuối mùa đông? Ui chao, không có cách nào thoát khỏi cái nhìn như "thấu gan thấu ruột" của bạn được. Thôi để tôi "confess" với bạn đây: tôi có tật nghe tiếng mưa rơi lại... nhớ cố hương. Bạn cho phép tôi được "lãng mạn" đôi chút cho vui nhà, vui cửa nhé! Để tôi nói rõ cho rồi, là nhớ mạ đó, nhớ các em nữa. Mần răng mà không nhớ cho được, lần đầu xa nhà, lại không biết khi nào mới gặp lại người thân. Nước mắt muốn ứa ra. Bóng dáng người mẹ hiền năm tháng tảo tần nuôi đàn con hiện ra như hình ảnh trong bài ca tôi nằm lòng từ lâu:
- Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày
Mẹ tôi đau buồn nặng trĩu đôi vai
Bao năm nuôi đàn trẻ thơ nhỏ dại
Cầu mong con mình có một ngày mai...
Nhưng ngày mai - hiện thân của tương lai - trong bài ca, với tôi là cuộc sống xa nhà, tứ cố vô thân. Nghĩa mà tủi thân chi lạ. Còn, ngày mai của mẹ tôi sẽ ra sao? Bỗng nhiên, hình ảnh cái thớt, nơi mẹ tôi mổ cá, làm tép, chặt thịt, sửa soạn bữa cơm thanh đạm hàng ngày cho gia đình, đến với tôi như nhắc nhở về sự tần tảo, chịu đựng không cùng của mẹ dành cho chồng con, đồng thời là căn nguyên nghiệp báo mà tôi đang dần dần ý thức được.
Nói cho ngay thì phải đợi khi tôi vừa tụng, vừa lễ sám mấy lần bộ Thủy Sám rồi, tôi mới hiểu nhiều hơn về nghiệp báo trong nhà Phật. Khi đó, mới thấy thương mẹ vô vàn.
Xin phép bạn (và bạn đọc) cho tôi ghi chú thêm. Trên đây là chuyện từ mùa Vu Lan năm trước, đến nay, tôi mới cầm bút để... trả lời hay trả nợ bạn. Xin bạn hoan hỷ nghe. Một phần bị con ma phong thấp "hành", phần khác là nhiều việc bất ngờ đã thành công trong "sứ mạng" đẩy tôi lên giường, xuống giường gần bốn tháng trời. Nhưng dù sao đi nữa Bồ tát vẫn còn thương nên đã gượng lại được rồi.
Bây giờ xin trả lời tiếp bạn đây. Hồi đó, nghĩa là hồi còn chạy lông bông, cũng biết thương mẹ thương cha thiệt nhưng chẳng hiểu là bao. Từ ngày vào chùa, tình thương tự nhiên thấy thấm thía quá, bạn à.
Thấm thía nhất là lý nghiệp báo, nhân duyên trong nhà Phật, trong đó có cha mẹ mình nữa. Từ bao nhiêu đời, trôi nổi, luân hồi khắp các nẻo. Hết làm loài này đến làm loài khác, không ra khỏi được vòng lẩn quẩn: khổ báo sanh nghiệp chướng, có nghiệp chướng thì tạo thêm phiền não, rồi bị quả báo trở lại. Cứ như vậy mà tiếp tục hoài mãi, không bao giờ dứt.
Nói về kinh nghiệm cá nhân, bạn cho phép tôi kể thêm chuyện nữa cho vui. Nhớ là đừng chọc quê tôi "mít ướt" nhé, lần sau tức mình không kể, ráng chịu đó.
Hôm đó, tôi phát tâm lễ bái theo nghi thức trong văn kinh Thủy Sám ở chánh điện chùa Từ Quang (Sans Francisco), tới một đoạn kia, bỗng nhiên nướt mắt tuôn ra, không xướng tiếp được nữa.
Cũng may là giờ trưa nên chẳng có ai thấy cả, bằng không thì chắc "chướng mắt" lắm. Tôi dễ mũi lòng, bạn à. Cứ thấy lời kinh mô tả con đường sanh từ dài hun hút mà chúng sinh phải trải qua, biển trầm luân thống khổ mà mọi người chịu cảnh chìm đắm là tôi khóc. Thỉnh thoảng có người thấy thương hại: "Tội nghiệp ông thầy, đã ốm yếu rồi sao lại hay khóc quá". Ai nói gì cũng mặc, tôi đọc kinh rồi bất giác liên tưởng đến hoàn cảnh mẹ và người thân là tôi không cầm được nước mắt. Để tôi thử đi một chiêu biện luận, bạn nghe có xuôi tai không. Có người nói: "Cười là tiếng khóc khô không lệ!" Như vậy, khóc ra nước mắt thì gần gũi và nhân bản hơn là nở nụ cười héo và không lệ chứ! Mà thôi, chuyện mình mình lo, hơi đâu mà bàn chuyện thiên hạ sự, bạn ha. Mà dường như nước mắt cũng là một thứ "lương dược khuyến tu" nhắc nhở tôi bền tâm vững chí trên đường đạo. Chỉ có hành thiện trên con đường này, may ra mới giúp được phần nào trong việc gỡ dần cái nghiệp báo cho song thân.
Trở lại kinh nghiệm của hôm tụng kinh Thủy Sám đó, tôi nhận thấy, ngài Ngộ Đạt quốc sư đã tu hành bao nhiêu đời mà khi nghiệp báo đến cũng bị nạn lớn, huống hồ chi chúng ta là những phàm phu hậu học, ắt khó thoát được lý oan trái. Tôi, bây giờ, ít ra cũng bắt đầu ăn cơm chùa, tìm hiểu giáo lý nhân quả, biết điều lành thì cố làm, còn dữ thì cố tránh, nhưng còn cha mẹ, chưa phát tâm, chưa có nguyện, không biết sẽ ra sao đây.
Năm đó, tôi học chưa xong, tiền bạc đã có được bao nhiêu đâu, vậy mà cứ ước: phải chi về được bên nhà năn nỉ cha mẹ quy y, ăn chay mỗi tháng vài ngày cho nhẹ bớt nghiệp, chứ tấm thớt tanh mùi thịt cá còn nằm bên áng nước thì rồi đây mẹ sẽ vẫn còn tạo thêm bao nhiêu nghiệp dữ. Nhưng than ôi! Nghĩ thì đơn giản, dễ dàng nhưng biển sâu cách trở, vạn thứ ngăn đường, cản lối, khó mà thực hiện được ước mong. Càng nghĩ, tôi càng nhớ càng thương mẹ vô cùng.
Mẹ tôi mẫu người nhà quê, bạn à. Chữ nghĩa ít nhưng không lúc nào quên việc chu toàn bổn phận người vợ đảm, mẹ hiền. Tôi không biết lúc về làm dâu mẹ tôi có gặp cảnh "nước mắt chan cơm" hay không, vì khi tôi lớn lên thì ông bà nội đều mất cả. Nếu có, tôi tin chắc là mẹ tôi vượt qua mọi thử thách vì người may mắn gặp được lương duyên. Không ngờ vào thập niên 40, 50 của thế kỷ hai mươi mà các "đấng sanh thành" của tôi cũng "romantic" quá trời! Mẹ tôi là người hiếm hoi trong thời đại của người dám từ bỏ tất cả để hành động theo sự thôi thúc của trái tim, bạn à.
(Ảnh chụp lại trong sách)
Nói đến đức tính của người vợ đảm, mẹ hiền, tôi xin phép được lấy trường hợp mẹ tôi làm điển hình để nhắc tới. Trong nhà, mẹ tôi thường nuôi một đàn vịt để dành giỗ chạp hay đãi bà con, bạn hữu. Thực khách được trọng vọng nhất là ông ngoại hay thầy khóa Du - thầy dạy chữ Hán cho ba tôi - từ đâu dưới Truồi lên thăm. Những dịp đó, mâm cơm riêng dọn ở nhà trên lúc nào cũng đặc biệt tươm tất.
Một hôm đẹp trời, mấy mẹ con đang ngồi trước sân thì thấy ba tôi và thêm sáu, bảy chú nói cười vui vẻ, cùng đi vào nhà. Mẹ và chúng tôi vội đứng dậy chào hỏi. Ba tôi lên tiếng:
- Nhờ mạ thằng Long xin cho nồi cháo đãi anh em, chắc ai cũng đang đói quá.
Câu nói đó như là một lời xin khéo mà cũng là một mệnh lệnh, hiểu cách nào cũng được (đó là chuyện riêng của hai ông bà mà).
Tôi còn nhớ rõ là mấy mẹ con vội vàng phân công làm bổn phận. Việc khó khăn nhất được giao cho tôi xua đàn vịt đi qua điểm "phục kích". Khi đàn vịt lọt vào "điểm nóng", a la hốp, một chú bị úp trọn trong thúng, la quang quác. Sau đó, việc gì xảy ra thì xin bạn đoán dùm với tất cả vốn liếng tưởng tượng phong phú của mình, tôi không cản đâu.
Cuối cùng là nồi cháo vịt thơm phức với răm hành tiêu ớt đầy đủ. Thế là tài tề gia quán xuyến của mẹ tôi được minh chứng, thể diện gia đình cũng được gìn giữ, và câu châm ngôn: "Người ăn thì còn, con ăn thì hết" đã được thực thi đúng mức. Bù lại, nơi nhà sau, mẹ và anh em chúng tôi, mỗi người chia nhau chút đỉnh "chiến lợi phẩm" và chén cháo vét cạn đáy nồi trong tinh thần hoan hỷ cố hữu!
Bao nhiêu năm sau, nhớ lại chuyện xưa, thực tình tôi lại mang tâm trạng khác và suy nghĩ khác. Hôm đó, tại chánh điện chùa, dưới chân Phật, hòa trong câu kinh tôi đã khóc. Tôi khóc vì "trăm dâu đổ đầu tằm". Không chỉ con vịt bị làm thịt trên tấm thớt sát sinh của mẹ tôi. Vì bổn phận gia đình mà bao nhiêu tội nghiệp mẹ phải chịu cả. Làm sao trả hiếu cho mẹ đồng thời làm giảm nhẹ phần nào nghiệp báo mẹ phải chịu? Cho tôi nói nhỏ nhỏ thôi nhe. Chắc mình đi tu rồi bạn ạ. Đó, bạn lại cự nự với tôi nữa rồi. Thì vào chùa hay ở nhà cũng được, đều có thể thực tập Phật pháp, miễn là có sự hành trì để có hồi hướng công đức. Được chưa? Thiệt người gì mà khó quá đi thôi!
Bạn ơi, bạn cho phép tôi được lặp lại câu: đền đáp công ơn cha mẹ là bổn phận của con người có văn hóa và văn minh. Với người Đông phương chúng ta, điều này không có xa lạ. Thương yêu cha mẹ có nghĩa là quan tâm chu tất những việc cần thiết để cha mẹ yên tâm trong cụoc sống và an vui trong tuổi già. Thấy cha mẹ lo lắng chuyện gì thì mình chẳng nên vô tình hay thờ ơ. Tôi còn nhớ một chuyện mà tôi vẫn tự hào là kẻ biết chia xẻ ưu tư với cha mẹ khi còn niên thiếu. Bữa đó, trời mưa to gió lớn, nhà rung rinh tưởng như sắp tốc mái. Mẹ tôi lo lắng quá. Tôi không đợi mẹ chấp thuận, hăng hái bắc thang leo lên mái, xếp dằn mấy bao cát lên múi tấm tôn cho gió khỏi lật. Khi leo xuống, người ướt như chuột lột nhưng nhìn lên thấy việc làm của mình có hiệu quả, tôi sung sướng như vừa lập được một kỳ công. Bữa đó, mẹ tôi không ngớt khen và "có vẻ" phục tôi là lanh lẹ và tháo vát, bạn hiền à. Việc trên tuy nhỏ, theo tôi, có ý nghĩa của việc làm có hiếu thuận vì làm vui lòng cha mẹ và vừa quan tâm đến sự ưu tư, lo lắng của bậc sinh thành. Giờ đây, đã trưởng thành, tôi có thể làm được những việc nặng nhọc hơn hay khó khăn hơn để giúp mẹ cha, tuy vậy, tôi tin tưởng vào hạnh nguyện xuất gia, vào con đường an tịnh Phật đã chỉ dạy cho chúng sanh có thể sống an lành và tạo sự an lành cho người khác, là phương cách hiệu quả hơn cả giúp tôi báo hiếu.
Bạn ơi, bây giờ, chưa đến mùa Vu Lan vì trời chỉ mới sang xuân, nhưng ai cấm mình bàn chuyện hiếu thảo, phải không bạn? Bạn đã bớt được chút xíu nào thắc mắc chưa. Dễ ợt à, đi tu là biết liền. Mong có dịp viết thêm cho bạn vào một ngày có nhiều sao trên trời và đầy hoa trên mặt đất. Chúc bạn hiền nhiều vui vẻ và niềm tin vào chánh pháp được luôn luôn tăng trưởng.