- 10. RĂN DẠY BỌN THIẾU NIÊN VÔ LỄ
Các giáo sĩ Bà la môn công kích vấn nạn Ca Chiên Diên rất nhiều, nhưng số Bà la môn duy trì tình bằng hữu với Tôn giả, tự giác tín ngưỡng cần để tự do cũng không phải ít.
Một phen nọ, Ca Chiên Diên hành hóa tại cố hương A Bàn Đề (Avanti) thôn Di Hầu. Trong thôn có một Bà la môn tên Lỗ Ê Già, ông ta đối với Tôn giả rất cung kính tôn trọng.
Một hôm, đám thiếu niên con em của Bà la môn Lỗ Ê Già lên núi chặt củi, bọn chúng đi ngang một hang đá thấy Ca Chiên Diên đang tĩnh tọa bên trong, chúng liền kêu réo nhau ồn ào, đem Tôn giả làm trò đùa với nhau.
- Ê! Lại đây! Mày lại đây coi Sa môn đầu trọc ở đây nè!
- Nhìn làm quái gì? Lão trọc ấy chẳng có thú vị gì cả!
Đám đệ tử của Lỗ Ê Già nhao nhao mỗi người một câu rần rộ ngoài cửa động, trong bọn này có một tên can gián:
- Úy! Các bạn đừng chế nhạo người ấy, ổng là người thầy mình tôn kính lắm đó.
Tuy vậy, bọn thiếu niên bướng bỉnh vẫn cười đùa, chế nhạo ầm ĩ, thậm chí còn lấy đá chọi vào hang.
Ca Chiên Diên đang tĩnh tọa phải đứng dậy bước ra ngoài, răn dạy bọn chúng một phen:
- Này các chú! Lúc trước các Bà la môn tu hành đàng hoàng, cấm tuyệt ngũ dục. Bây giờ thì Bà la môn cưới vợ đẻ con, giống như người thế tục. Các chú xem hành vi của các chú chẳng khác bọn trẻ nít hoang đàng vô lễ, bộ thầy các chú dạy như vậy đó hả?
Thái độ của Ca Chiên Diên oai nghi như sư tử làm bọn thiếu niên nép một bên chẳng dám hó hé, nhưng trong bụng rất căm tức. Lúc về nhà, bọn chúng liền mách lại với Lỗ Ê Già, nói Ca Chiên Diên đã mắng chửi Bà la môn thế nọ, thế kia.
Lỗ Ê Già nghe xong, nổi giận nói rằng:
- Ta đối với Ca Chiên Diên rất tôn kính mà ông ấy trở lại mắng nhiếc chúng ta, ta phải đi tìm ông ấy hỏi cho ra lẽ!
Lỗ Ê Già sát khí đằng đằng tức tốc chạy đến thạch động của Tôn giả, phen này không làm lớn chuyện không xong. Nhưng khi gặp Ca Chiên Diên nghiêm trang, ôn hòa thuật lại những lời của bọn trẻ và lời nói của mình cho ông ta nghe. Lỗ Ê Già cảm thấy xấu hổ, cúi đầu chẳng nói lời nào.
Ca Chiên Diên thừa cơ hội nói tiếp:
- Này bạn Lỗ Ê Già! Ông nghe tôi nói đây, tín ngưỡng và sự tu tập của chúng ta là cốt giải thoát sanh tử, đạt được sinh mệnh tự do. Trăm ngàn lần không thể đem tín ngưỡng và việc tu biến thành một thứ nghề làm ăn. Hiện nay, trong số các đạo sĩ Bà la môn, làm lễ cúng tế cho người đời, dường như là có ý kinh doanh, lìa gia đình để làm Bà la môn tu đạo có được mấy người chân chánh? Phần lớn toàn là vì danh văn lợi dưỡng, tự mình làm ra vẻ chí thành mà thật là hư dối. Đã không được cứu độ mà mang chiêu bài tôn giáo để thỏa mãn dục vọng của riêng mình, thiệt là chuyện đáng buồn!
Các Bà la môn thời nay đều là ngoài tâm cầu pháp, nếu không cầu phước báo nhân thiên thì cũng đem hiện tượng trong vũ trụ ra mà giải thích tới lui, có mấy người nhận thức được chính mình? Thầy của tôi là đức Phật, là vị cứu tinh cho các nhà tu đạo đang lẩn quẩn trên đường tôn giáo. Ông là hảo hữu của tôi, mong rằng ông sẽ bỏ mọi điều tà chấp, đừng ham làm thầy thiên hạ, đem tâm tình bao la đồng theo đức Phật mà học tập với tôi đi!
Lỗ Ê Già nghe xong, lộ vẻ thẹn mà nói:
- Tôn giả! Ngài nói rất đúng. Giờ đây tôi sẽ nhất nhất làm y theo lời chỉ giáo của Ngài.
Thiệt là tợ như vác cây đại đao muốn đâm người, mà chẳng đâm trúng Ca Chiên Diên, trở lại bị Tôn giả dùng lời lẽ sắc bén bẻ gãy, Lỗ Ê Già chỉ còn cách buông hết các thứ võ trang vọng tà chấp, đầu hàng Ca Chiên Diên – Luận nghị đệ nhất .
- 11. THUYẾT MINH LÝ VÔ THƯỜNG
Đức Phật rất thích các đệ tử lỗi lạc, chỉ cần có chút khả năng cũng được nêu lên tán dương. Ca Chiên Diên là một thánh đệ tử phi thường, đức Phật mỗi khi nhìn thấy hoặc nghe nói đến tên tôn giả đều rất hài lòng. Cho nên một hôm ngài đến giáo hóa nước A Bàn Đề, bèn bảo Tôn giả thay ngài giảng nói đạo lý vô thường cho tứ chúng.
Ca Chiên Diên đảnh lễ đức Phật trước sau mới nói:
"Các vị đại thiện tri thức! Tất cả mọi sự tụ hội đều có lúc ly tán, có sanh ắt có tử, có thành thì có hoại, các pháp hữu vi trên thế gian dù cho sơn hà đại địa, sum la vạn tượng cũng không thoát khỏi pháp tắc vô thường!
Các vị hãy nhìn xem, mùa xuân trăm hoa đua nở, một trận gió thu thổi tới liền biến thành cảnh tượng lá vàng rơi lả tả, vốn là tuổi trẻ mặt đẹp sắc hồng, trải qua năm tháng liền thành da nhăn tóc bạc, già nua lụm cụm.
Làm người nếu quả như không thoát khỏi sự vô thường thì cái sinh mệnh ngắn ngủi này thiệt là cô độc và bi ai lắm. Như giọt sương đọng trên cành, vừa lúc mặt trời lên chiếu rọi muôn ngàn tia sáng, nó đã tan biến theo bóng đêm.
Quyến thuộc, ân ái mà đến lúc già chết cũng không ai thay thế được. Con cháu hiếu thuận, trong lúc ông bà xuôi tay nhắm mắt cũng chỉ biết vây quanh người mà khóc kể, khóc đến mấy cũng không níu được vô thường, cũng không làm ông bà sống lại.
Kim ngân tài bảo cũng chẳng nương cậy được vững bền. Qua một cơn thiên tai, hỏa hoạn liền mất hết giá trị. Danh vọng quyền thế cũng không thật, trên thế gian có vương hầu nào không từng bị lật đổ?
Không rõ lý vô thường sẽ bị màu sắc rối ren của thế gian lừa đảo. Kìa là thiên nhiên núi xanh sông biếc, kìa là loài người sức khỏe tráng kiện, đây xã hội, đèn hồng rượu lục, mấy thứ ấy mới nhìn qua thật thú vị vô cùng, mà cũng thật là cạm bẫy hại người, vì đã chứa sẵn sự vô thường lo sợ.
Suy nghĩ kỹ mà xem, thế gian chỉ có vô thường là trên hết, nơi nơi đều là hư ngụy, giả dối lừa đảo. Chỉ có chân lý nhân quả và nghiệp lực mỗi người tạo tác là không hư ngụy, không dối gạt thôi. Nhân quả và nghiệp lực như bóng theo hình, dù sống dù chết chúng đều theo dính bên ta.
Vì thế, thưa các vị đại thiện tri thức! Người tu chúng ta cần phải có tinh thần khiêu chiến với con ma vô thường. Theo lời chỉ dạy từ bi của Phật đà, chúng ta cần phải nỗ lực khẩn thiết tu tập, nhận thức được bộ mặt thật của chính mình, phá tan thế gian vô thường, chứng đắc sinh mệnh vĩnh cửu. Chúng ta không cầu sống, mà cũng chẳng bị chết!"
Lời chỉ dạy thống thiết của Tôn giả, nghĩa lý phân minh làm cảm động tất cả tứ chúng trong hội.
Thay Phật thuyết pháp, chỉ có Ca Chiên Diên biện tài nghị luận, mới đầy đủ tư cách ấy, mới được vinh dự ấy.
- 12. NÓI ĐẠO LÝ PHÁT TÀI CHO KẺ NGHÈO
Tôn giả đến trước và hỏi:
- Này cô! Chuyện gì khiến cô buồn thảm mà ngồi đây khóc lóc?
Cô kia càng khóc lớn:
- Chẳng việc gì đến ông, nói với ông làm quái gì?
- Này cô! Cứ nói tôi nghe, tôi là đệ tử Phật, tôi có thể giúp cô giải quyết vấn đề được chứ.
- Ông mà làm cái gì. Ông coi, trên đời này không công bằng, giàu nghèo khác nhau trời vực. Tôi là một kẻ nghèo cùng suốt đời khổ sở, tôi bị cái khổ bần cùng mãi, đến nỗi không còn muốn sống nữa.
Cô nói xong, lại lăm le nhảy xuống nước, Ca Chiên Diên vội kéo cô ta lại, từ bi giảng giải:
- Này cô! Đừng buồn thảm như vậy. Trên đời này có biết bao nhiêu người nghèo đâu phải mình cô. Vả lại, nghèo cùng không hẳn là bất hạnh, là khổ sở. Kẻ giàu chưa chắc là khoái lạc. Cô coi mấy người phú hộ lắm của nhiều tiền kia, hằng ngày cứ bị tham dục sân si quấy rối khổ sở. Làm người ở đời chỉ cần sống bình an là quý, bần cùng có gì bi thảm đâu nào?
Cô ta lại vùng vằng la lối:
- Ông là Sa môn, ông không cần đến tình đời, còn tôi đâu có được. Ông phải biết tôi là đầy tớ cho một nhà phú hộ, cùng đời mạt kiếp làm kẻ tôi đòi, cơm áo không đủ, tự do chẳng có, mà còn gặp chủ nhân hắc ám, tham lam hung dữ chẳng có chút xíu từ tâm. Tụi tui làm công chuyện hễ sai một chút là lãnh đòn, nghe chửi, muốn sống không yên, muốn chết chẳng được, nghĩ đến nỗi cùng cực đó đều do kiếp nghèo mà ra, bảo sao tôi không buồn không khổ?
- Cô à! Tuy nhiên như vậy, cô cũng đừng bi quan. Tôi sẽ chỉ cho cô một cách phát tài và thoát khỏi nghèo khổ.
- Cách gì vậy ông? – Cô ta quẹt nước mắt, hy vọng nhìn Tôn giả.
- Ồ, cách này rất đơn giản. Cô đã bị bần cùng làm khổ, thì cô cứ đem bần cùng bán quách cho người khác đi.
- Bần cùng mà bán cho ai? – Cô nọ lại la lên – Ông lại nói giỡn, bần cùng mà đem bán được thì trên cõi đời này không còn người nghèo. Có ai mà chịu mua cái nghèo bao giờ?
Ca Chiên Diên trả lời:
- Bán cho tôi, tôi chịu mua.
- Bần cùng có thể bán được, mà cũng là ông mua. Nhưng ở đời này ai biết cách bán nó ra sao.
- Hãy bố thí! Tôn giả khai thị tiếp. Cô nên biết sự giàu nghèo ở đời đều có nhân duyên. Người nghèo sở dĩ nghèo hoài là vì đời trước không chịu bố thí và tu phước, người giàu sở dĩ giàu sang sung sướng là vì đời trước họ đã bố thí và tu phước. Vì vậy bố thí, tu phước là cách bán nghèo mua giàu tốt nhất đó.
Người nữ tỳ nghe xong, trí tuệ khai thông, đến hôm nay cô mới biết cách làm giàu. Nhưng cô lại đau khổ mà hỏi rằng:
- Thưa Tôn giả! Ngài dạy chí phải, con đã biết cách để được phát tài. Nhưng con nghèo quá mức không có chút gì cả, cái vò nước trong tay con cũng là của chủ nhà, họ giữ của còn hơn giữ mạng sống, ngài bảo con bố thí cái gì bây giờ?
Ca Chiên Diên đưa bình bát cho cô ta, nói:
- Bố thí không cần phải là tiền bạc, thấy người khác bố thí mà mình phát tâm vui vẻ cũng được. Cô hãy múc nước đổ đầy bát cho tôi, đó là cô đã bố thí rồi!
Người nữ tỳ liền hiểu rõ ý nghĩa bố thí, liền làm theo lời dạy. Về sau nhờ công đức cúng nước cho Tôn giả, cô được sanh lên cõi trời Đao Lợi.
Ca Chiên Diên đầy đủ phương tiện thuyết pháp, gọi rằng Luận Nghị Đệ Nhất, thật là danh bất hư truyền.
- 13. ĐỔI ÁI TÌNH THÀNH TỪ BI
Đương lúc đó, vua nước ấy – Văn Đồ Vương gặp một biến cố đau đớn, đó là vị đệ nhất vương phi mà vua rất yêu dấu chẳng may mệnh bạc. Nhà vua buồn khổ muôn phần, bỏ ăn bỏ uống, không ngó ngàng gì đến triều chánh, ngày nào cũng khóc lóc thảm thiết.
Người đã chết, dù là bậc quyền thế tôn quý như vua chúa, cũng không thể bảo sống trở lại được. Vua Văn Đồ thì không thể nào quên tình ân ái cũ, ra lệnh các quan đại thần ướp xác vương phi và quàn trong cung, mỗi ngày nhà vua đều đối diện tử thi mà than thỉ:
- Ôi! Cái miệng xinh kia sao không nói chuyện với trẫm? Đôi tay kia sao không ôm trẫm? Vương phi yêu dấu ôi! Sao không chịu mở mắt nhìn trẫm?
Nỗi bi ai của nhà vua cứ triền miên bất tận như thế, các quan đại thần cũng chẳng có cách gì, họ khuyên can nhà vua xin đừng buồn thảm quá độ, nhà vua chẳng để tai lời nào, lại nói: "Muốn nhà vua hết buồn, cách tốt nhất là làm sao cho vương phi sống lại" nhưng chuyện ấy ai mà làm được.
Trong lúc bối rối, bế tắc, các đại thần chợt nghĩ ra: Tôn giả Ca Chiên Diên hiện đang giáo hóa ở đây, hy vọng nơi oai đức và tài biện luận khéo léo của tôn giả, chắc thuyết phục nhà vua có thể dứt bỏ mối bi ai, lấy lại dũng khí mà chỉnh đốn triều ca.
Các quan dâng kiến nghị lên vua:
- Muôn tâu đại vương! Trong nước ta hiện nay có một đại đệ tử của đức Phật đang du hóa, đó là tôn giả Ca Chiên Diên, một bậc đại thần thông, đại oai đức, trí tuệ uyên bác không vấn đề gì không hiểu, ngay cả văn tự Phạm Thiên trên tấm bia cổ ngài cũng biết được! Tôn giả biện tài vô ngại, mỗi khi nói chuyện gương mặt thường nở nụ cười. Xin thỉnh đại vương hãy đến gặp ngài, chắc chắn sẽ có nhiều lợi ích.
Vua Văn Đồ nghe tâu, vội hỏi:
- Thần thông của người ấy có thể gọi vương phi ta sống dậy không?
Các đại thần lúng túng, đều chẳng biết trả lời ra sao, trong ấy có một vị đã từng nghe tôn giả thuyết pháp, cung kính đáp:
- Muôn tâu đại vương! Có thể hay không thể làm cho vương phi sống dậy, điều ấy chúng thần không dám trả lời chắc, chuyện ấy chỉ có đến thỉnh giáo tôn giả Ca Chiên Diên mới biết được thôi.
Vua Văn Đồ chuẩn y lời tâu của các quan liền lập tức ban lệnh đi ngay. Nhà vua ngự xe loan, mang theo nhiều lễ vật đến rừng trúc. Gặp mặt Tôn giả vua liền yêu cầu cứu mạng cho vương phi hồi sinh.
Ca Chiên Diên bẻ một nhánh cây gần đấy, nói với nhà vua:
- Này đại vương! Hãy đem nhánh cây này về cung, mà giữ cho nó tươi xanh hoài, đừng khô héo, được không?
- Điều đó không thể được, cây đã lìa cội rễ, làm sao mà sống, mà xanh tươi.
- Vậy thì phu nhân đã hết nghiệp, thọ mạng đã chấm dứt, mà bảo sống trở lại, chuyện ấy làm được sao?
Ca Chiên Diên hỏi trở lại, vua Văn Đồ ngay lúc đó liền giác ngộ lý vô thường, người đã chết không thể sống lại.
Tôn giả biết tâm nhà vua, liền thuyết pháp tiếp theo:
- Này đại vương! Ngài là vua một nước, ngài cai trị toàn dân, toàn thể dân chúng là người của nhà vua chớ chẳng riêng một mình vương phi là của vua đâu. Đại vương nên đem tấm lòng thương một mình vương phi mở rộng ra thương khắp hết người trong thiên hạ, dùng từ bi thay thế tình yêu riêng tư, thì quốc gia mới hưng thịnh, dân chúng sẽ ủng hộ nhà vua mãi mãi.
Vua Văn Đồ nghe xong, bừng tỉnh cơn mê, dứt hết mọi buồn thương, đảnh lễ cáo biệt tôn giả, trở về cung an táng vương phi, chỉnh đốn triều chánh, thương dân như con. Từ đó cả nước mừng vui, ai nấy đều cảm kích tài khéo thuyết pháp của Tôn giả Ca Chiên Diên.
Ngày nay khói lửa tràn lan trên thế giới, chúng ta mong mỏi tinh thần Nghị luận đệ nhất của Tôn giả Ca Chiên Diên sống lại trong Tăng đoàn Phật giáo để thuyết phục các nhà lãnh tụ hiếu chiến kia.