- 8. QUÊ HƯƠNG KHẮP NƠI
Tôn giả không trụ nơi nào cố định, đến đâu cũng xem là gia hương. Có khi, vì muốn Phật pháp thường trụ, Ngài cũng vận động kiến tạo tinh xá, giảng đường, nhưng khi xây cất xong Ngài chưa từng xem đó là tài sản tư hữu của mình. Thỉnh một vị tài đức trụ trì và Ngài lại lên đường đi nơi khác.
Phú Lâu Na không cất chứa vàng bạc, ngoài ba y bình bát, không đem theo món gì bên mình. Chúng ta không thể căn cứ trên sự biểu thị của vật chất, Phú Lâu Na không cần sự biểu thị ấy, Ngài cũng có vô lượng công đức Trí tuệ pháp tài. Biết bao nhiêu chúng sanh nhờ lãnh được pháp tài ấy mà trở nên giàu có một đời, thành tựu được sự nghiệp sinh mệnh hằng cửu.
Phú Lâu Na không hề lưu ý đắn đo về sự ăn mặc. Ngoài ba y hoại sắc, Tôn giả không đắp y gấm vóc sang trọng, bình bát hóa duyên không phân nghèo giàu, không chọn ngon dở, chỉ vừa đủ no là tốt thôi. Tôn giả không nghĩ đến việc chọn thức ăn bổ dưỡng làm gì, đối với Ngài thực phẩm bổ dưỡng nhất là cam lồ của đức Phật.
Một hôm, khi Phú Lâu Na hành cước nơi thành Câu Lợi, trên đường gặp một người đồng hương. Người ấy làm lễ Tôn giả và thăm hỏi:
- Tôn giả! Tôi nghe nói Ngài mỗi ngày vân du hành cước, bôn ba mọi nơi như thế này, chẳng biết Ngài bận rộn chuyện gì? Từ khi Ngài xuất gia tôi chưa thấy Ngài trở về quê thăm bà con, chúng tôi đều mong nhớ Ngài. Ngài xuất gia đã lâu, mà chẳng có một mảnh ruộng vườn trang trại, chẳng có chút gia tài nào, vì đâu Ngài nghèo nàn đến vậy? Bao giờ Ngài mới trở về nhà?
Phú Lâu Na cũng rất lễ phép đáp:
- Đa tạ! Đa tạ! Hôm nay gặp ông thật cao hứng. Ông hỏi tôi mỗi ngày bận rộn điều gì ư? Tôi xin nói, mỗi ngày tôi bận lo cho chúng sanh lìa khổ được vui. Đến nơi nào cũng là cố hương của tôi, cũng là thân quyến. Hiện tại, tôi là đệ tử đức Đại thánh Phật đà, ruộng vườn huyễn hóa, gia đình tài sản vô thường, tôi chẳng thể nô lệ những thứ ấy, tôi không thích bị mấy thứ hư dối ấy ràng buộc. Tôi thích đi hành khước, hoằng pháp mọi nơi. Tôi làm sứ giả cho chân lý, tôi vì chúng sanh chỉ dẫn con đường đến Chánh giác. Xin ông vì tôi trở về cảm ơn những ai lo lắng cho tôi. Phú Lâu Na này cũng sẽ giúp ích các ông, đến lúc cần về quê tôi sẽ trở về.
- Tôn giả! Xa cách lâu năm tôi không ngờ rằng sau khi theo Phật xuất gia, Ngài vẫn còn tích cực như thế, vẫn còn nhiệt tình đầy tràn. Ngài hoàn toàn quên mình mà vì mọi người, tôi thật khâm phục hết sức! Khi Ngài trở về cố hương nhất định tôi sẽ rất hoan nghênh. Hoan nghênh Ngài đem ánh sáng của đức Phật về cho quê hương chúng ta.
- Đa tạ! Tôi sẽ y nguyện vọng của ông!
Phú Lâu Na nói rồi lại vội vã đi nơi khác gieo hạt giống Bồ-đề.
- 9. PHƯƠNG PHÁP BỐ GIÁO
Tôn giả biết rằng thuyết pháp là hoàn toàn vì chúng sanh chớ không phải vì mình, nói pháp là để cho chúng sanh nghe chớ không để cho mình nghe. Đạo lý cao sâu nhiệm mầu chỉ có số ít người lãnh hội, ở trước đại chúng Tôn giả chỉ nói những đạo lý đơn sơ dễ tiếp nhận.
Gặp hạng người nào nên nói giáo pháp nào, đó là sở trường của Phú Lâu Na.
Khi Tôn giả gặp thầy thuốc, liền nói:
- Các ông làm thầy thuốc có thể tạm trị lành những bệnh khổ về thân, còn căn bệnh lớn tham, sân, si trong tâm người các ông có phương chi trị liệu chăng?
- Tôn giả! Y sĩ chỉ có thể trị bệnh đau đầu, đau bụng, đau chân, không trị được bệnh khổ trong tâm. Ngài có biện pháp gì không?
- Có – Phú Lâu Na khẳng định – Giáo pháp của đức Phật như giọt nước cam lồ có thể rửa sạch cấu uế trong tâm chúng sanh. Giới, định, huệ tam học như liều thuốc vạn linh, có thể trị lành tâm bệnh tham, sân, si.
Gặp thầy thuốc thì nói như vậy, còn gặp quan chức, Phú Lâu Na lại hỏi:
- Các ông làm quan, có thể trị tội phạm nhưng các ông có cách gì trị người vô tội chăng?
- Tuy là quốc pháp, nhưng cũng chẳng thể trị phạt người vô tội.
- Ngoài quốc pháp các ông và tất cả dân chúng nên phụng hành Phật pháp. Đạo lý của Ngũ giới, Thập thiện, pháp tắc nhân quả luân hồi, nếu ai giữ đúng sẽ không hề phạm tội.
Phú Lâu Na khéo thuyết pháp như thế, không kể là y sĩ, quan chức đều theo đó mà quy y Tam bảo, tín ngưỡng đức Phật.
Một hôm, Phú Lâu Na đi ngang thôn xóm nọ, gặp mấy người nông phu đang làm ruộng, bèn hỏi:
- Các ông làm ruộng, trồng những thứ lúa để nuôi thân, tôi sẽ dạy các ông phương pháp canh tác ruộng phước để nuôi dưỡng huệ mạng, chịu không?
Nông dân đều hỏi:
- Cày ruộng phước nuôi huệ mạng thì phải làm sao?
- Tin Phật, phụng sự Tam bảo, cung kính với Sa môn, chăm sóc người bệnh, nhiệt tâm đối với những việc từ thiện lợi ích chung, hiếu thuận với cha mẹ, với làng xóm nên ẩn điều xấu phô điều lành, đừng sát hại vô độ. Đó là cách tốt nhất để canh tác phước điền.
Hết thảy nông dân đều chắp tay thưa hỏi, xin lãnh thọ lời dạy của Tôn giả.
Phú Lâu Na không có nơi chốn cố định, thuyết giáo cũng không có phương pháp cố định, khi thì diễn thuyết công khai giữa quần chúng, khi thì đến từng gia đình để phỏng vấn, có khi ngâm vịnh tán ca đức Phật, lúc lại hiện thần thông khiến người phát tâm. Vì vậy giáo pháp của đức Phật rất dễ được chúng sanh lãnh thọ.
- 10. THUYẾT PHÁP CHO VUA TẦN BA SA LA
Tần Bà Sa La là vua nước Ma Kiệt Đà. Trong các vị vua đương thời, nhà vua là người quy y Phật đầu tiên. Về sau vì Đề Bà Đạt Đa xúi giục, thái tử A Xà Thế đem vua nhốt vào ngục tối không cho ăn uống, A Xà Thế bèn lên kế vị.
Nhà vua ở trong ngục bị thái tử cấm chỉ không cho người mang thức ăn. Đối với đứa con ngỗ nghịch ấy, nhà vua cũng cam tâm tự an ủi rằng: Đây là do nhân duyên quá khứ. Càng chịu nguy ách khốn khổ, nhà vua càng nhớ lời Phật dạy: Trời đất, trăng sao, núi Tu Di, biển lớn còn không thể trường tồn, có thành ắt có hoại, có thịnh thì có suy, hợp thì phải tan, sống rồi sẽ chết, hết sướng đến khổ, vui phải có buồn. Trên thế gian chẳng có niềm vui nào vĩnh cửu, chỉ có khổ là miên man không cùng tận.
Tuy nhà vua nghĩ như vậy nhưng cũng không thể hoàn toàn buông bỏ, nghĩ tới mạng sống ngày mai thật là lo âu.
Phú Lâu Na và Mục Kiền Liên bay qua mấy từng ngục phong tỏa, tối om, đen kịt, không khí nặng nề như mồ chôn tử thi, đến phòng giam Tần Bà Sa La. Phú Lâu Na ngồi kế bên nhà vua nói nhỏ:
- Đại vương! Tôi vâng lời Phật đến đây. Phật dạy tôi nói với đại vương rằng: "Sắc thân này là do nghiệp lực chiêu cảm, rốt cuộc đều chịu khổ báo. Nghiệp quả nên để nó kết liễu. Người tu đạo cần yếu là có thể tiêu diệt nghiệp báo, được giải thoát. Người bị giam trong ngục, bị trói buộc mất tự do. Thật ra, người chưa vào ngục mà bị tiền tài, danh lợi, sắc đẹp vây khốn thì cũng giống người đang ở tù. Thế giới Ta Bà đều là một thứ ngục lớn, không kể ngồi tù hay không ngồi tù đều không thoát chết, cho nên cái chết chẳng phải là điều đáng kinh hãi, đang lúc còn sống mà đã hứa hẹn chắc chắn với tử vong, điều đáng sợ là khi chết mà không có chỗ trở về tốt đẹp. Phật dạy, xưng niệm thánh hiệu Phật A Di Đà, phát nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây, đó mới là một cõi nước an lành tự do giải thoát".
Vua Tần Bà Sa La nghe Tôn giả nói xong trong lòng rất an ổn, thấy được ánh sáng của vấn đề chết sống. Và sau đó nhà vua an tịnh vãng sanh.
Phú Lâu Na đối với việc cứu độ chúng sanh khổ nạn không ai bì kịp, thật là khéo thuyết pháp.
- 11. TINH THẦN BỐ GIÁO
Một hôm, sau mùa an cư, Phú Lâu Na nghĩ đến việc đi hoằng hóa, bèn đến thưa đức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Xin Ngài từ bi cho phép con đến nước Du Lô Na bố giáo!
Đức Phật nghe nói rất hoan hỷ. Nhưng đức Phật là một nhà truyền giáo vĩ đại, Ngài biết chuyện ấy không phải dễ, chỉ cần đến một nơi như nước Du Lô Na sẽ biết sự thật, Thế Tôn nói:
- Phú Lâu Na! Việc giáo hóa chúng sanh lợi mình, lợi người, ta rất vui hứa cho chí nguyện của ông. Ông đi giáo hóa các nơi ta đều yên lòng. Nhưng ta bảo ông, bố giáo không nhất định phải đi đến nước Du Lô Na. Tốt nhất ông nên chọn nơi nào khác rồi sẽ ra đi.
- Vì cớ sao? Thưa Thế Tôn! Hễ nơi nào có chúng sanh đáng độ, chẳng phải đều có thể đến đó dạy dỗ ư?
Đức Phật giải thích:
- Phú Lâu Na! Du Lô Na là một nước nhỏ hẻo lánh, không có đường giao thông thuận tiện, giáo hóa chẳng được như ý. Dân chúng tánh tình rất hung bạo, đánh chửi thành thói quen, người nước ngoài đến đó dễ bị mất mạng. Hôm nay ông muốn đến nước đó chẳng lẽ ông không sợ nguy hiểm sao?
Nghe Phật nói như vậy, Phú Lâu Na chỉ mỉm cười, biểu lộ chí nguyện cương quyết của mình:
- Thưa Thế Tôn! Ngài từ bi thương tưởng chúng đệ tử, con không thể dùng lời diễn tả mối cảm kích. Con vì cảm động ân ấy mà hoan hỷ nguyện đem thân nhỏ mọn này phụng hiến cho đức Phật, phụng hiến chánh pháp và tất cả chúng sanh. Chính vì Du Lô Na là một nước biên địa hoang dã, trước đây chưa người nào phát tâm giáo hóa, nên con mới nghĩ rằng không đến đó không xong. Đến đó, con cũng biết có tất cả nguy hiểm theo bên mình, nhưng vì muốn tuyên dương chánh pháp thì sự an nguy của một cá nhân bé nhỏ của con không phải là vấn đề cần yếu. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi hứa khả, dùng từ quang nhiếp hộ con, cho phép con đi khai mở một cõi Tịnh độ nhân gian.
Trên gương mặt đức Thế Tôn lộ vẻ an tường rất mực từ bi, Ngài vui thích tinh thần vì pháp quên mình của Phú Lâu Na. Nhưng đức Thế Tôn nhìn hàng đệ tử tả hữu đông nhiều, họ cần phải cụ bị tinh thần của một nhà truyền giáo, nên thân thiết hỏi Phú Lâu Na:
- Phú Lâu Na! Ông nói đúng, làm đệ tử ta bố giáo là việc tu hành trọng yếu thứ nhất, nhưng ta hỏi ông, ông đến nước Du Lô Na, nếu như họ không chấp nhận ông mà lớn tiếng chửi mắng, ông mới làm sao?
- Bạch Thế Tôn! Họ mắng chửi con, con vẫn thấy họ còn tốt vì họ cũng chưa lỗ mãng đến nỗi dùng roi gậy đánh đập con.
- Nếu như họ dùng nắm tay, gạch ngói, roi gậy đánh đập ông?
- Con vẫn thấy họ còn tốt, chưa đến nỗi đâm chém con.
- Nếu như họ dùng dao búa như thế?
- Con cũng cho họ rất tốt, họ cũng còn tình người chưa đến nỗi giết con chết.
- Nếu như họ giết ông chết?
- Như thế con lại cảm ơn họ, đã giết sắc thân của con, hỗ trợ cho đạo nghiệp của con, giúp con mau vào Niết-bàn, giúp con đem sanh mạng báo đáp ân đức của Thế Tôn. Điều ấy đối với con tuy không có trở ngại, chỉ sợ di hại ảnh hưởng không tốt cho họ thôi.
Đức Phật rất hoan hỷ, khen ngợi Tôn giả:
- Phú Lâu Na! Ông không hổ là đệ tử thứ thiệt. Tu đạo, bố giáo, nhẫn nhục, tâm cảnh của ông rất bình an. Chúng ta sẽ đưa ông lên đường.
Phú Lâu Na được Phật khuyến khích rất cảm động, tâm bố giáo bất thối chuyển càng tăng cường mạnh mẽ. Tôn giả đảnh lễ Phật xong, thẳng đến nước Du Lô Na giữa những tiếng hoan nghinh đưa tiễn của chúng Tỳ kheo.
- 12. PHẬT SỰ TẠI NƯỚC DU LÔ NA
Nước Du Lô Na đất xấu dân nghèo, chỗ nào không núi cao thì cũng nước sâu, toàn quốc đã không có đô thị phồn hoa, lại rất ít có xóm làng đông đúc, nhân dân chỉ sinh sống bằng nghề săn bắn, ăn lông ở lỗ.
Khi Tôn giả mới đến, chẳng vội giáo hóa thuyết pháp ngay. Trước đó Tôn giả đã học xong ngôn ngữ địa phươngDu Lô Na và trong công tác truyền giáo, ngoài ngôn ngữ ra còn phải chuẩn bị nhiều điều kiện.
Nhân dân Du Lô Na đối với tiếng nói của tôn giả không thấy cách biệt, nhưng mọi người thấy Ngài đắp y mang bát đều nhìn với cặp mắt kỳ quái. Tôn giả biết rằng tại một địa phương văn hóa lạc hậu như thế, nếu không dùng phương tiện thì khó mà khai phát lòng tin cho họ. Ngài cũng biết lúc này mà nói chân lý đàm huyền luận diệu thì chẳng có ma nào nghe, chủ yếu trước tiên là phải cải thiện nếp sống của dân chúng. Hoằng pháp không ra ngoài sinh hoạt của thế gian. Do đó, tạm thời Ngài không cho biết thân phận Sa môn của mình, chỉ như một ông thầy thuốc mỗi ngày lo thăm bệnh và khán hộ người bịnh.
Phú Lâu Na có nhiều phương thuốc trị bịnh rất đơn giản, không kể xóm làng xa xôi, cho đến phải trèo đèo, vượt suối, hễ nghe tiếng bệnh nhân rên rỉ, Ngài liền lập tức đến nơi không kể ngày đêm, không kể đầu non, cuối biển. Người bệnh thấy Ngài như thấy vị cứu tinh, bệnh nặng đến đâu cũng tiêu nhiên qua khỏi.
Phú Lâu Na lại có tư cách một nhà giáo dục, dạy họ học hành chữ nghĩa rành rẽ. Ban ngày dạy cho cách trồng trọt kịp thời tiết, những phương pháp trị gia, chiều đến nhóm họp mọi người lại giảng dạy về đạo lý nhân quả báo ứng của Ngũ giới, Thập thiện. Chẳng bao lâu, dân nước Du Lô Na đều quy y Phật, và tại đây, Tôn giả thâu phục năm trăm đệ tử, thành lập năm trăm ngôi tinh xá.
- 13. ĐIỀU KIỆN CỦA MỘT NHÀ BỐ GIÁO
- Khéo biết pháp nghĩa.
Có thể giảng thuyết.
Không sợ sệt trước đám đông.
Biện tài vô ngại.
Nhiều phương tiện khéo.
Tùy theo pháp mà ban bố.
Đầy đủ oai nghi.
Dũng mãnh tinh tấn.
Thân tâm không mệt mỏi.
Thành tựu oai lực.
Ngày nọ, Thế Tôn trên pháp tòa nhìn xuống thấy Phú Lâu Na đang cùng chúng đảnh lễ, Ngài mỉm cười hỏi:
- Phú Lâu Na! Ông về đấy ư! Đại chúng đều lo lắng cho ông! Ông hóa độ chúng sanh tại nước Du Lô Na thành công chăng? Ông giúp ta tuyên dương chân lý, tinh thần bố giáo, thể chất thanh khiết đều hoàn toàn. Về phương diện tinh thần, ông đã xác định lòng tin vững chắc nơi Tam bảo, ông đã tu dưỡng đầy đủ từ bi, trầm tĩnh, tài trí, dũng cảm, về mặt thể chất ông đã rèn luyện thân thể khỏe mạnh, phẩm hạnh, phong độ, âm thanh, biện tài đều hoàn bị. Phú Lâu Na, ta rất an lòng khi ông đến Du Lô Na bố giáo.
Đức Phật ngưng một chút, lại bảo đại chúng:
- Các Tỳ kheo! Trong hàng đệ tử ta, được như Phú Lâu Na mới xứng đáng với danh xưng Thuyết Pháp Đệ Nhất, các ông nên noi gương Phú Lâu Na.
Các vị Tỳ kheo nghe Phật dạy, đều quay về phía Phú Lâu Na vấn tấn, đảnh lễ, khen ngợi, chúc mừng. Phú Lâu Na một mặt cảm thấy e ngại, một mặt lại được cổ động tinh thần.
- 14. KHÁNG NGHỊ VỚI ĐẠI CA DIẾP
Các đệ tử đều rất bi ai, Phú Lâu Na đi giáo hóa phương xa, nghe tin Phật Niết bàn, bèn vội vàng dẫn đệ tử về thành Câu Thi Na thọ tang. Về đến nơi, kim thân Thế Tôn đã trà tỳ. Phú-lâu-na ngoài mối thương tâm ấy, còn rất quan tâm đến giáo pháp của Phật, Tôn giả biết rằng giáo pháp chính là Pháp thân Phật.
Biết được các Thượng tọa Tỳ kheo do ngài Đại Ca Diếp lãnh đạo, đã chủ xướng cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất tại Kỳ Xà Quật. Sáng sớm hôm sau, Phú Lâu Na vội đến tham dự. Lúc ấy cuộc kiết tập đã gần xong, Đại Ca Diếp thấy Phú Lâu Na đến rất vui mừng nói:
- Tôn giả! Ngài đến rất đúng lúc. Chúng tôi kết tập giáo pháp của Phật gần xong, đang chờ ý kiến của Ngài.
Phú Lâu Na lắng nghe tỉ mỉ phần kết tập và đáp:
- Thưa chư tôn giả! Các vị kết tập giáo pháp như thế này khiến mọi người cảm phục! Về nội dung toàn bộ tôi không có bàn bạc gì thêm. Nhưng về phần Luật tạng, liên hệ đến tám pháp ẩm thực đều dẫn ra để cấm ngăn, tôi khó mà đồng ý, vì điều ấy trái với bản ý của Phật.
Hiện tại các vị cấm tám việc như: Chứa thức ăn trong phòng, nấu nướng trong tự viện, tự nấu, tự lấy thức ăn, từ chỗ khác đem thức ăn về, ăn các thứ trái cây, ăn những vật thực sản xuất từ hồ ao. Cấm tám điều ấy thật là rất bất tiện cho các nhà tu trong Tăng đoàn. Gặp lúc lúa bắp khan hiếm, gặp thời đói khổ, khi đi xin không được thức ăn, Phật đều cho phép tám việc trên.
Ngài Đại Ca Diếp là vị trưởng lão oai quyền trong chúng, từ trước chưa ai dám đưa ra ý kiến khác biệt với Ngài, tuy trong tâm họ cũng có đôi chút không vui nhưng ngoài mặt vẫn mặc nhiên. Phú Lâu Na cũng là vị trưởng lão cao đức nên mới đưa ra điều này. Đại Ca Diếp nghe xong, nghiêm túc đáp rằng:
- Điều đó đúng, đức Thế Tôn cho phép làm tám việc ấy, nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt mới hứa khả thôi.
Cả hai Tôn giả đều biện luận cho ý mình, rốt cuộc không giải quyết được là nên cấm hay không nên cấm. Cuối cùng Phú Lâu Na nhượng bộ nói:
- Đã không có biện pháp khác, thì từ đây tôi chỉ giữ y theo những điều tự thân nghe Phật nói, theo sự lãnh ngộ của tôi.
Phú Lâu Na nói xong, lại lên đường tiếp tục hành trình hoằng pháp.
Phú Lâu Na nhập Niết bàn lúc nào, và ở đâu? Chuyện đó không có tài liệu khảo cứu, chúng ta chỉ biết rằng, sau khi Phật nhập diệt Phú Lâu Na vẫn nhiệt tâm đi giáo hóa khắp nơi. Xem cuộc kháng nghị của Tôn giả với ngài Đại Ca Diếp, chúng ta thấy Đại Ca Diếp cố giữ đúng y pháp, còn Phú Lâu Na thì đứng về phương diện tự do.
Tôn giả Phú Lâu Na luôn luôn lưu tâm đến Phật pháp, luôn luôn vì đại chúng mưu cầu hạnh phúc. Ở thời ma cường pháp nhược này, chúng ta tìm đâu ra một tinh thần và nhiệt tình bố giáo như Tôn giả?