Chương 7. Prithviraj Chauhan
1. Ta phải cai trị triều đại Chauhan làm sao để bình yên khi bọn người của đạo sư Mekopa gây bất mãn khắp nơi và sự đe dọa của đoàn chiến bin Mamluk do tướng Muhammad Ghori dẫn đầu ngày càng lớn? Prithviraj ngồi xếp ủ dột trên chiếc ghế vàng ròng chạm khắc những hoa văn, giữa bốn bức tường chứa đầy một cô độc và thở than. Từ thời Thái tổ Anangpal Tomar dày công chinh chiến trên lưng ngựa, thu phục đất đai từ Ajmer đến Delhi. Đế chế Chauhan lớn mạnh của gia tộc Rajput Chauhan đã làm các nước láng giềng phải ganh tỵ.
“Con phải thay gia tộc Rajput Chauhan giữ gìn đất đai cho đến tận hơi thở cuối cùng”. Ông nội Angam Chauhan đứng cùng Prithviraj trên tường thành, chỉ tay xuống dãi đồi, nơi rặng Aravalli trùng điệp nhấp nhô phủ một màu xanh và dưới thảo nguyên, một bầy ngựa cùng đoàn kỵ mã lướt đi dưới ánh nắng chiều. “Ta sẽ trao cả vùng Delhi cho con vì ta biết Prithviraj Chauhan là vị vua thông minh và dũng cảm”, ông nói. Prithviraj Chauhan lặng im. Chàng nhớ đến cha. Xa xa, mặt hồ Bhardwaj chuyển dần màu nước từ danh da trời sang xanh lá cây, theo mổi buổi sáng chiều. Nơi đó, chàng và người cha quá cố Someshwar Chauhan, vua Ajmer, thường đứng bên góc đồi cao ngắm nhìn từng đàn bồ nông từ phương xa bay đến, quần tụ và bơi lội trên mặt hồ. Đâu đó tiếng bầy vịt nước gọi nhau, từng đàn trôi mình đi từ mép bờ này sang mép bờ bên kia. “Con nên dời đô thành đến Delhi và phát triển Chauhan thành một đế chế trường tồn bằng thanh kiếm trên tay”.
Prithviraj tuốt vỏ thanh gươm. Vũ khí này từng giúp chàng đánh bại hoàng đế Bhimdev nước Patan cùng đám tàn binh, truy đuổi vua Mahoba phải tháo chạy khỏi Parmar, thâu tóm cả vùng Kukada. Nhưng chàng chẳng thể hạ bệ được bọn tu sĩ Mekopa qua một đường gươm bén nhọn.
“Một lúc nào đó từ dòng sông Hindon, tôi sẽ bơi ngược về thượng nguồn Himalayan và ẩn cư tại đó đến trọn đời”. Prithviraj mệt mõi nói với người bạn thân Chand Bardai.
Thi sĩ Chand Bardai ngạc nhiên nhìn người bạn nối khổ của mình, trong trí tưởng tượng của anh không thể hình dung được, chàng trai Prithviraj quen chinh chiến trên lưng ngựa từ thiếu niên lại tỏ ra chán chường.
“Nhà vua mang cả nàng Sanyogita cùng đi chứ?”.
“Tất nhiên, nàng là người đàn bà không thể thiếu trong cuộc đời tôi.”
“Đây! bạn xem”, Prithviraj mang bức tranh nàng Sanyogita trải lên bàn, “tuyệt tác và thơ đề của bạn vẫn còn đây”.
Chand Bardai gật gù. “Đây là tranh hoàng phi Sanyogita được tôi vẽ tại đền Koteshwar”.
“Và nó đã kết hợp tôi với nàng như một giấc mộng”, Prithviraj cười lên thích thú.
“Nhưng đó lại là cớ để hoàng thân Govindaraj muốn làm phản người!”
“Điều đó chẳng quan trọng với ta”
“Người thật không quan tâm sao?”. Chand Bardai lo lắng nói.
Prithviraj trầm giọng “làm phản”, hay bất kỳ từ ngữ nào vọng hiện trong lúc này, đều không có nhiều ý nghĩ với Prithviraj.
Trước một bế tắc, ngài lần hồi qua từng dòng ký ức, lục tìm một kỷ niệm vui thú đã qua. Như tiếng trống trầm mridangam, tiếng đàn thanh diệu veena đệm nền cho điệu múa bharatnatyam của nàng Sanyogita. Trong vòng âm thanh trộn hòa cuốn theo mỗi nhịp chân nàng nhịp nhàng, vung đẩy tiếng lục lạc leng ren. Trong vũ điệu tay vung xòe tụ cho mỗi chiếc vòng xuyến ào rớt chạm, đọng leng keng. Trong từng nét đường cơ thể. Trong từng bước chân động lay. Trong một đắm chìm hân hoan. Sanyogita hiện diện qua lớp hóa thân của chư thiên bằng buông bỏ hết thảy mọi luyến bám trần tục, bằng khép lại ngũ quan, bằng buông trôi ý thức như gió tản mây trời. Tất cả xung động thanh thoát lên từ cơ thể nàng nàng devadasis dường như chẳng còn kiểm soát. Chư thiên đã ngự. Thánh thần đã xuống. Xuống với nàng qua ý lực đẩy đưa màn đạo vũ từ cõi thiên hiện thể trong bước nhảy con người, nở ra như một hoa sen bhavas sáu cánh dưới ánh sáng chân lý rực rỡ. Một cánh của santa bhava có tình yêu thương của đứa con với người mẹ. Một cánh của dasya bhava chứa lòng tận tụy với chân lý. Một cánh của sakhya bhava có bình đẳng tuyệt đối. Một cánh của vatsalya bhava là sự trung thành với Krishna. Một cánh của kanta bhava là tình yêu vợ chồng. Một cánh của madhurya bhava chứa đầy tình yêu vĩnh cửu của Krishna.
Rồi sau tiếng tụng niệm “Namah Shivaya! Namah Shivaya! Namah Shivaya!” của nhạc công, Sanyogita chuyển múa mình sang vũ điệu Tandava. Vũ điệu tình yêu thoát tục của Shiva. Một trăm lẽ tám bước nhảy dập dồn như con sóng đại dương, như các chòm sao lung linh trên dãi thiên hà cao, như rung chuyển của bão giông, như giao chuyển giữa ngày và đêm tối; và qua vũ điệu đó, tiến trình sáng tạo, thành trụ, hủy diệt, vô minh, và giải thoát khỏi xiềng xích maya thị hiện.
Prithviraj say mê ngắm nhìn từng bước nhảy của nàng. Và giữa khắc thời rung động trong sấm sét chế ngự, trong một vô ngôn hình dung. Prithviraj vội nắm tay Sanyogita, kéo níu, khi nàng vừa định bước qua rèm sau: “Này Sanyogita! Người con gái xin đẹp có vũ điệu tuyệt luân! Nàng có bằng lòng trọn đời này chỉ múa cho ta xem?”.
Sanyogita ngước nhìn nhà vua buồn bả đáp: “Em nào dám từ chối tình ý của chàng. Nhưng một devadasis như em phải biết làm sao ngoài cách trọn đời hiến mình cho Thượng Đế qua vũ điệu Natya Yoga tại ngôi đền này?”
“Ta sẽ đưa nàng về cung và chẳng sợ người chỉ trích”. Prithviraj nâng càm Sanyogita, thỏ thẻ nói qua hơi thở và ánh mắt nồng nàn.
“Nhưng em chỉ là một nô lệ, còn ngài là quốc vương của Chauhan”. Sanyogita ngước đôi mắt ngấn nước nhìn nhà vua.
Prithviraj mạnh mẽ đáp: “Em có biết tình yêu không có ranh giới, chẳng cần giai cấp. Ta là một quốc vương và có thể làm thay đổi mọi quan niệm cổ truyền”.
Prithviraj nghe một vòng tay mềm mại luồng qua eo. Qua mùi tóc thơm dịu tỏa, ngài biết Sanyogita đang đứng sau lưng mình.
“Có phải chàng đang sầu muộn?”
Nhà vua quay lại, đắm nhìn thật sâu vào đôi mắt thẳm đen, lên bờ môi đỏ nồng một yêu thương. Prithviraj vuốt tóc Sanyogita, kéo đầu nàng áp vào ngực mình. “Em hãy nghe đây, từng nhịp trái tim anh đang náo động, rẩy run như một tình yêu vĩnh cửu của gió cỏ cây trời, lã lay trên dãy đồi Aravalli xuyên buổi nắng nhẹ chiều vàng”.
Em sẽ đãi chàng một bài hát giải sầu. Sanyogita xoay mình, gửi lại Prithviraj một nụ cười.
Prithviraj bật cười, “sầu muộn của ta chỉ có một người là hiểu rõ”.
Rồi trong một đèn lửa chập chờn, trong một tối sáng điểm nền, trong tiếng đàn jagate chạm khởi qua mấy ngón tay mềm, qua đôi môi đỏ hồng mở khép. Tiếng nàng Sanyogita cất lên, tung tẩy theo từng nhịp đàn, dạt trôi trên một biển rộng lưng trời, kéo vượt một sâu thẳm buồn rầu, đánh nổi một thanh lạc cõi đời.
Nói đi anh tình yêu thật sự là gì?
Phải như ánh mắt dịu dàng mà anh ngắm nhìn em
Phải như vòng tay ấp áp mà anh ôm em dưới trăng rằm
Phải như nụ hôn ngọt ngào mà anh đặt lên môi em trong một đắm say
Phải như sự kiếm tìm em mà anh sợ thiếu vắng hay không?
Giữa lời ca ngọt ngào đó. Từng âm. Từng nhịp. Tung tẩy kéo rớt từ đỉnh sầu từng giọt buồn phiền rụng rơi lên khung phím. Prithviraj sững lặng nghe như một pho tượng lẫn chìm giữa một sáng lạnh mù sương của thời gian đông đặc. Prithviraj chơi vơi thốt lên, nàng là hiện thân của thiên nữ Apsara mềm mại và phiêu bồng trên những tầng mây cao. Tiếng hát nàng là para vani, là khởi thủy của lời ca tiếng nói, là âm thanh di chuyển nhịp nhàng của các vì tinh tú trên bầu trời, là hơi thở của Thượng Đế, là dòng sữa ngọt ngào rót cho linh hồn đói khát của ta. Chàng nghe. Có một gom tụ của tiếng “OM”, âm tiết đầu thiêng liêng đầu tiên của vũ trụ hiện thể. Có một sinh khởi của tiếng “HUM” từ sự xúc chạm các nguyên tố mà tạo thành nhịp điệu. Có Nada, năng lượng của lòng thể hiện sự hiện hữu tạo thành độ rung. Và qua ahata, sự lắng nghe tiếng nói của thanh âm bên ngoài, đánh thức rasa (cảm giác) và bhava (tình cảm) của lòng từ bỏ và lãng quên trở dậy. Rồi anahata, sự lắng nghe âm thanh của hơi thở thì thầm bên trong kêu gọi kẻ lạc loài trở về tận hưởng phúc lạc của sự vĩnh hằng.
2. “Hoàng thân Govindaraj Chauhan gửi đến nhà vua thông điệp từ Ajmer rằng, nếu còn bênh vực bọn Thu-đà-la và làm Đạo sư Mekopa mất lòng, gia tộc Rajput Chauhan sẽ phết truất ngài”. Gã sứ giả được hoàng thân Govindaraj gửi tới, nói rỗn rảng sau bức rèm ngăn cách.
“Các ngươi muốn phản lại quốc vương Prithviraj, người được đích thân tiên vương Chauhan đệ nhi trao truyền ngôi vua?”. Thượng thư Dharmapa giận run, quát tên sứ giả.
“Hoàng thân Govindaraj còn nói vương tộc Rajput Chauhan không thể chấp nhận một vị hoàng đế lại kết hôn với tầng lớp cấp dưới, và ã ta còn là một kỹ nữ giữ đền.”
“Quốc vương Prithviraj nhân từ và việc kết hôn với một devadasis cho thấy thành ý hàn gắn xã hội của ngài”. Dharmapa nói.
“Thần là một sứ giả chỉ có nhiệm vụ chuyển lời. Govindaraj còn nói nhà vua phải có ba việc phải làm và không được chối từ. Một là đuổi ã Sanyogita ra khỏi hoàng cung. Hai là không cho phép Ananda lưu trú tại nước Chauhan. Ba là không được bênh vực bọn Thu-Đà-La đang nổi dậy chống người Bà-la-môn khắp nơi.”
Thượng thư Dharmapa quát lên: “Không thể nào chấp nhận được những yêu sách của hoàng thân Govindaraj”.
Prithviraj ngồi nghe sau bức màn, nhìn Dharmapa xua tay và nói: “Ngươi hãy trở về báo với hoàng thân Govindaraj ta sẽ sớm có câu trả lời”. Rồi ngài lặng im lần bước qua cửa sổ. Sau bức màn, xuyên qua từng khẻ hở nhỏ xíu, nhà vua nhìn thấy một màu thẳm xanh điệp trùng của núi rừng, của suối nguồn, của mây trời bị rọc chia. Từng miếng nhỏ xanh rờn thu lại qua khẻ hở, ghép nối từng mãng, đan kết thành một tổng thể rạc rời, thị hiện trong trò chơi chiếm hữu. Prithviraj chạm tay lên cửa sổ, nghe cái thô ráp của tấm màn từ ngón tay chạy đậu lên con tim đầy thất vọng.
Thời gian chầm chậm nhúc nhích theo từng sát-na hơi thở, theo từng sóng phiền não cuộn trào trên đại dương dầy động, kéo đẩy con thuyền tri giác lao chao dưới mảnh trời lộn đảo. “Thưa bệ hạ! Chúng ta cần phải làm gì?”. Thượng Thư Dharmapa hỏi.
“Làm gì ư”, Prithviraj nhìn ngọn đèn bơ leo lắt dãy sáng hờ tạm như của một đời sống bất định, của cái nhị nguyên ngắn đoản. Ánh sáng và màn đen. Cái rực rỡ của minh quang nhờ ảo mờ mà hiện hữu. Cái thực trước nhật trời thành rõ tỏ. Cái ảo huyền tựa tối tăm hiện nhòe nhạt.
“Hãy trở về và nghĩ ngơi đi!”, Prithviraj nói và bỏ đi.
Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống đô thành Dehil.
3. Buổi sáng vừa thức dậy trên nền trời lặng mờ sương, xuyên dãi nắng tản vàng rớt mình long lanh qua mặt lá ướt xanh, đọng thẳm. Sau giấc ngủ dài. Sau buổi hôn trầm đắm chìm vào mộng mị dạt trôi. Hàng xoài lộ mình sững thẳng, tựa lưng dọc theo con đường đá nhẵn. Bên góc trời đó. Qua những ngày tự mình thả bay những tàn bông héo úa, tìm lãng quên mau xuyên những xác lá rệu rã tại một quá khứ đã từng. Xoài tái sinh sau lớp áo nâu ngà. Tại đây. Quanh đường vòng xoay chuyển của tự nhiên, năm tháng và mùa vụ; một khởi đầu vật lý cho sống, cho tụ mầm hiến tạo tương lai được bắt đầu.
Và giữa khúc thời gian rãi chậm. Quanh khoảnh trời rộng mở. Theo sầu muộn trôi dòng. Lạc nhìn nắng sớm nhảy nhót quẩn quanh cây. Prithviraj tự hỏi mình, tiến hóa và thời gian, cái quy luật thường hằng kia vẫn sao chưa làm thay đổi nhân loại này? Vẫn cái dòng tư tưởng của thế nhân từ hôm qua đến hôm nay, lo âu và cô độc, thất vọng và bất mãn, thù hằn và ganh tỵ, mọi thứ vẫn trụ lại như buổi thời hoang dại cổ xưa. Như vết rạn của tản đá bên hồ, dưới chân Prithviraj, mối quan hệ xung đột của người, với muôn loài, với tư tưởng đã chưa từng khép lại theo thời gian. Cái bóng lịch sử ở sau lưng và tại trước mặt, những cuộc chiến tranh và cách mạng, phân chia và cô lập, từng ngày cứ diễn ra, từng ngày đến tan rã, không còn thể kiểm soát. Prithviraj ngữa mặt nhìn trời, lầm rầm vãn than. Ôi! Cái thế giới loài người. Thế giới hãy đầy những bất công và đau khổ, vì sao? Câu hỏi đó! Câu hỏi khởi lên trong dòng suy tư hôm nay, hôm qua và hôm Prithviraj vi hành, kinh lý đến Ajmer xem vụ xử án kẻ tiện dân ra đồng cắt trộm lúa của người Bà-la-môn vì nghèo khổ và đói kém.
“Phải chặt tay tên nô lệ này để cảnh cáo những kẻ tham lam khác”. Vị trưởng lão tuyên án trước đám đông ồn ào đứng xem.
“Tuy hắn ăn trộm nhưng đâu phải tội lớn?”. Prithviraj bước ra, đứng bên kẻ trộm, biện minh hộ trước tòa.
“Bọn tiện nhân phải xử nặng để răn đe”. Trưởng lão già đáp lời.
“Đúng! Kẻ nào ăn trộm tài sản của người Bà-la-môn, hình phạt phải tăng gấp đôi. Cần phải chặt cả hai tay cái kẻ ô uế này”. Một người Bà-la-môn khác tiếp lời.
“Nên chặt cả hai tay”. Đám đông giơ tay, đồng thanh hét lên.
Giữa những lời thét giận dữ, kẻ bần cùng đưa ánh mắt tuyệt vọng, run rẫy ngoái nhìn ngài. Ôi! Prithviraj thảng thốt. Ngài vừa nhìn thấy cái tia sáng cuối cùng của vầng dương sắp tắt rọi vào vùng biên viễn tối tăm dốt nát, xóa tan ảo tưởng về một thế giới bình đẳng và hạnh phúc đang có tại vương quốc Chauhan, dưới tài minh trị của Prithviraj vĩ đại được quần thần tung hô. Thật thất vọng! Nhà vua chới với tựa vào vai thượng thư Dharmapa. Ngài lờ mờ hiểu, chính lòng yêu thích hoàn hảo mù quáng đã trao cơ hội cho sự dối trá che lắp cái biết, đặt ngài tin vào những lời báo giả tạo và sống giữa bức màn ảo tưởng do mình dựng nên, vun đắp từng ngày tại cung cấm.
“Đây là nhà vua Prithviraj vĩ đại của chúng ta. Ngài nhận thấy vụ trộm này thật không đáng để chịu một hình phạt nặng nề. Vì lòng từ bi, ngày tuyên bố vụ trộm thóc là chuyện bất khả khán, tuyên gã nô lệ nộp phạt mười đấu thóc và được tha bỗng”.
Thượng thư Dharmapa nhanh nhảu bước ra theo ý nhà vua, dặp tắt ý định hành hình kẻ trộm từ những người quá khích.
“Chúng con không có của cải gì, chỉ xin dâng ngài bát nước lạt để tạ ơn”.
Prithviraj đón nhận bát nước từ đôi bàn tay cháy xạm của gã Thu-đà-la nghèo. Ngài nhìn căn nhà vách đất dựng dưới mái lá rách tơi, cạnh bên những đứa trẻ đen đúa bẻn lẽn đứng nhìn. Từ sâu thẳm của tình thương, nhà vua hỏi Dharmapa: Còn bao nhiêu người như tên trộm Srinivasan phải sống trong cảnh đói nghèo tại vương quốc Chauhan? Điều gì tạo ra sự khác nhau giữa những người Bà-la-môn và tầng lớp khác? Nhưng Prithviraj không muốn nghe câu trả lời cũ, Thượng Đế quy định tất cả, lời giải thích có điều gì không đúng và lầm lạc tại vương quốc của ngài. Nhưng gã Thượng thư lặng im, lấp lé nhìn khuôn mặt nhà vua, chần chừ nói mình không thể đoán biết.
“Gia đình ngươi sinh sống bằng gì?”. Prithviraj ân cần hỏi.
“Bẩm nhà vua! Con làm thuê trên cánh đồng kia”. Srinivasan chỉ tay về hướng cánh đồng.
“Cánh đồng đó thuộc sở hữu của ai?”.
“Nó thuộc đền Kerala, do trưởng lão Dasharatha cai quản”. Srinivasan nói.
“Thưa bệ hạ! Đền Kerala là sở hữu thuộc môn phái của Đạo sư Mekopa”. Thượng thư Dharmapa bẩm cáo.
Prithviraj nhìn dãy màu lúa mì trúng mùa cuối vụ, trãi rực vàng đến khuất xa tầm mắt và hỏi:
“Trong làng này không ai có khoảnh ruộng nào ư?”.
“Bẩm! Cả làng chúng tôi làm công cho các chủ đất trong vùng”. Srinivasan cuối đầu nói.
“Dharmapa! Ngươi hãy bảo cho ta biết, tại sao có chuyện bất công này?”. Prithviraj tức giận hỏi.
“Thưa bệ hạ! Đây là tục lệ ngàn đời. Thần ngu muội, chỉ biết là có sự phân biệt nhưng không rõ lý do là gì?”.
Uống cạn chén nước hạnh nhân trộn mật ong và sữa từ người hầu dâng tới. Prithviraj đứng nhìn bóng mặt trời và hàng cây soi dáng xuống mặt hồ nước lặng lạnh băng. Sau một màn đêm đã hết trời. Sương mù ứ đọng mây. Một ngày mới lại bắt đầu từ ánh nắng nhung vàng. Tại cảm xúc dâng đầy qua tươi mới và háo hức, Prithviraj nghĩ, Chauhan cần phải có một đợt thay đổi, một cuộc cải cách xã hội đem đến hạnh phúc, ấm no cho tất cả thần dân, không ngoại trừ, chẳng phân biệt. Và trong niềm vui sướng của đoạn kết, ngài sẽ ngắm nhìn họ tung chạy tự do như cá lượn ngoài biển khơi, như chim lướt giữa lưng trời.
Nhưng Prithviraj không biết thay đổi này sẽ bắt đầu từ đâu? Ngài muốn hiểu tại sao lại có sự phân biệt người Bà-la-môn, người Sát-đế-lị hay người Thu-đà-la? Do đâu người ta tin tưởng vào chúng trong một niềm tin được cho là thiêng liêng và không thể bàn cãi?
Prithviraj nhìn Ananda, hồi hợp chờ đợi câu trả lời.
“Nhà vua biết loài cây này có tên gọi là gì?”. Ananda hỏi.
“Tất nhiên là cây xoài”
“Ngài biết nó có tên gọi này từ đâu?”
“Ta biết vì mọi người đều gọi nó như thế”
“Thưa nhà vua! Trước mắt ngài, trong hiểu biết của ngài, đây là giống xoài xanh tốt được trồng trong góc vườn thượng uyển. Mỗi ngày, nhà vua nhìn ngắm nó qua những lần dạo bước dưới những tàn cây, biết nó thay lá, trỗ bông và ra trái vào lúc nào, vị quả của trái vàng chín mộng thơm ngon ra sao. Thử ngược về khởi thủy, vào buổi binh minh của sự sống hãy còn ẩn mình trong hạt giống, chẳng có một tên gọi nào cho chủng loài, chẳng có tri thức nào tồn tại ở thế nhân. Khi ấy, có một loài cây vô danh mọc bên góc dại ven rừng. Một ngày có người thợ săn nhìn thấy nó, vì tò mò, anh ta nếm được vị ngọt ngào của mùi trái chín thơm. Sau đó anh ta chạy về làng và reo lên: Này mọi người! Tôi tìm được cây xoài có mùi vị rất thơm ngon ở bên cánh rừng phía đông. Rồi rất nhiều dâng làng theo bước anh thợ săn kéo đến bên loài cây dại đó, họ nếm trái chín và gọi nó là cây xoài”.
Ananda nhìn Prithviraj Chauhan: “Nhà vua nên biết, giống như tên gọi dành cho cây xoài, thế giới này đã khởi đầu bằng một hư dối, rồi nối tiếp những hư dối. Thật ra chẳng có gì gọi là một người Bà-la-môn, hay một người Thu-đà-la, chúng chỉ là danh xưng và từ ngữ chỉ có ý nghĩa quy ước trong ngữ cảnh kinh nghiệm”.
“Có thật là tất cả hiện hữu tại thế giới này đều hư ảo như các vị đạo sư đã nói?”. Prithviraj tròn mắt nhìn Ananda.
“Nhưng nhà vua hiểu thế nào là một thế giới của hư ảo?”
“Nó hư ảo bởi vì cái được và cái mất không thường hằng”
“Ví như sự hiện hữu của tôi tại đây và cây xoài đằng kia là không thực?”
“Thực nhưng không vĩnh cửu”
“Theo nhà vua, điều gì thì tuyệt đối?”
“Thánh kinh Vệ-Đà nói Thượng Đế thì vĩnh cửu và cái tạo ra từ ngài thì không trường tồn.”
“Này nhà vua! Tại một biển trời xanh rờn, những dạt sóng mềm nhấp nhô trên bề mặt dại dương không ngừng vỗ động, vài con tàu đang lướt đi theo hướng gió rì rào. Trước cảnh tượng mê lụy đó, người ta hồ hởi hỏi rằng: Gió từ đâu tạt tới? Nước nhô lên vì sao? Lại không ai muốt tìm hiểu xem bên dưới lòng biển rộng lớn kia là một trầm lặng vô hạn. Như cách chúng ta quen nhìn ngắm những tài sản chứa trong nhà, những bà vợ bám kế bên, những nô lệ tuân phục, những đôi mắt nhìn ngắm ‘tôi’ trong ngưỡng mộ. Và qua sự tất bật đó, chúng ta chẳng còn thời gian để biết đằng sau sự hiện hữu là gì?”
“Vậy thì, thế giới hư ảo đã thị hiện như thế nào?”, nhà vua phấn khởi hỏi.
“Tôi muốn hỏi vì sao nhà vua nhận biết được sự hiện hữu của tôi, của cây xoài, của cái hồ, của vạn vật này? Liệu có phải vì tự thân cây xoài là cây xoài? Tự thân cái hồ là cái hồ? Tự thân vạn vật là vạn vật? Trong câu chuyện về cây xoài, tôi kể cho ngài nghe về khởi thủy của nó và cái danh từ ‘cây xoài’ mà ngài dùng để nhận ra cây xoài, nó là một tri thức lượng. Và nhờ rất nhiều danh từ xếp chồng lên ký ức như thế, ngài nhận ra sự hiện hữu của vạn vật nhưng trong ý nghĩa của nó, như ban đầu, chỉ là ảo tưởng.”
“Và người ta đã quan sát sự hiện hữu qua các khái niệm?”
“Khi tôi nhìn ngắm nhà vua, cái hình ảnh được ghi vào ký ức tôi chỉ là một rung động của kinh nghiệm cá nhân, và hình ảnh đó chắc chắn không phải là ngài. Khi tôi nhìn ngắm cây xoài mỗi ngày, theo thời gian, ‘tôi biết’ mùa vụ nó ra hoa, thời điểm nó có trái non đậu lủng lẳng trên cành. Vì ‘cái tôi biết’ về giống xoài, thời vụ của nó, sắc màu của nó, hương vị của nó là bất biến, nên tôi nghĩ tri thức đó là sự thật. Và tôi cho rằng tự thân giống xoài, nội tại có những thuộc tính, có những vận động, có những đặc thù, có sự phổ biến của chính nó. Nhưng khốn thay! Chẳng có tri thức nào sinh khởi trong nội tại của chính nó, mà sự quan sát, mà ý niệm của cái tôi tạo nên sự đồng hiện hữu của thực thể ở bên ngoài, tạo nên trải nghiệm đau khổ và lạc thú tại bên trong.”
“Toàn bộ tri thức về thế giới cũng là hư ảo?”
“Trên toàn thể, cái danh từ ‘vườn thượng uyển’ gợi lên ý tưởng gì đó của giàu có và sang trọng, nhưng cảm giác không là thực tại và nó hoàn toàn là một khái niệm.”
“Và tri thức của con người về xã hội cũng là huyễn tưởng?”
“Nhà vua có biết thế giới đã hình thành ra sao không?”
“Ta rất muốn nghe câu chuyện đầy hấp dẫn này”. Prithviraj háo hức chờ đợi.
* * *
Này nhà vua! Hàng tỷ năm trước, trong thời kỳ đầu của đại tỳ kiếp Satya Yuga. Chúng nhân hãy còn là những cư dân bán thiên luân hồi xuống từ cõi trời do hết phước báu. Chủng nhân ấy không có giới tính, sống thọ hàng ngàn năm, thân hình long lanh qua ánh hào quang ngũ sắc. Họ di chuyển nhanh bằng ánh sáng, sống bằng dưỡng khí, bay đi trong hư không, có được một đời sống rất thanh tịnh.
Rồi một số chúng nhân cảm khởi lòng nhàm chán thế giới của mình, họ thèm muốn tìm kiếm thứ lạc thú khác. Một ngày, chúng nhân đó nhìn thấy những màu đất đẹp đẽ, thơm lạ dưới cõi thấp và có ý muốn thử dùng thứ địa tố đó. Họ hồ hởi lấy ít đất đặt lên đầu lưỡi, không ngờ vị ngon lan toả, tan hoà vào cơ thể. Và họ kháo nhau, này bạn, dưới kia có thứ đất thơm ngon không dùng sẽ hối tiếc. Từ đó, ái dục chế ngự khích họ dùng mãi thứ đất ấy, luyến tiếc không từ.
Thời gian trôi qua, những chủng nhân đó mất đi ánh hào quang cơ thể. Thân xác biến dị tùy căn cơ nghiệp quả, thành ra có màu da khác biệt, người sáng láng kẻ thô ráp. Rồi trong lòng họ vọng khởi lên một bản ngã, xem trọng mình, khinh thường người khác. Thế giới vì sanh ngã đó mà biến động, vị đất dần thoát mất.
Khi loại đất không còn thơm ngon. Thế giới lại có loại lúa Sali không cần đến người trồng, hương thơm tỏa ngát ngoài đồng. Buổi sáng hái xuống đem nấu, chiều về hạt ấy đã có lại trên cành.
Nếu như địa tố là loại tịnh thực, thì gạo Sali là thực phẩm cần phải tiêu hoá. Do dùng nhiều gạo Sali cơ thể họ lại biến đổi, sinh ra cơ quan tiêu hoá, bài tiết; rồi phân biệt nam nữ.
Khi giới tính phân biệt, sự gần gũi khởi sinh sắc dục. Sắc dục sinh khát dục. Khát dục sinh hỏa dục. Hoả dục phát sinh giao hợp. Rồi họ muốn cất nhà cửa, che đậy quan hệ vợ chồng.
Đến khi quần tụ gia đình, chủng nhân ấy trở nên lười biếng. Họ ra ngoài đồng hái thật nhiều gạo Sali đem về nhà tích trữ. Lòng tham sở hữu làm gạo Sali không tự nhiên mọc nữa, chúng nhân bàn nhau phân chia đất đai rồi đem giống Sali trồng trên mảnh đất của riêng mình. Nhưng bởi nghiệp vận quần tụ, mùa màng hay thất thường, dần dà gạo Sali thoái hoá thành ra có vỏ trấu.
Rồi khi thế giới thật sa đọa, người ta phải đón những người có nghiệp xấu lần lượt luân hồi tái sinh. Thế là có nghèo giàu, trộm cắp, dối trá và chỉ trích xuất hiện.
Từ buổi ấy, tại bộ tộc giàu có và thanh bình Kukada, dân chúng thường xuyên bị cướp phá. Họ rất sợ hãi và không hiểu điều gì đang xảy ra. Họ yêu cầu Sanjham Rai một chàng trai khỏe mạnh dẫn đầu nhóm thanh niên đứng lên bảo vệ bộ tộc. Đảng cướp bị đánh đuổi. Dân làng hợp lại nói, không biết khi nào bọn cướp phá quay trở lại, hay là yêu cầu Sanjham Rai trở thành người lãnh đạo và chúng ta gọi ông ấy là vua.
Rồi Sanjham Rai trở thành vua bộ tộc Kukada. Ngày tháng dài yên bình trở lại trên thung lũng, dân chúng mãi chăm lo sống cuộc sống của riêng mình mà quên mất Sanjham Rai. Nhà vua buồn rầu hỏi Udal, một người thông thái của bộ tộc, ta không còn được họ tôn trọng thì phải làm sao? Udal thưa, gần vùng Kukada có bọn người rất hung tợn, ngài gửi vài thanh niên sang quấy phá để họ tấn công chúng ta.
Đột nhiên bị kẻ khác tấn công cướp phá. Dân làng kéo đến cầu cứu Sanjham Rai. Và nhà vua lại dẫn quân đánh bại được kẻ thù.
Sanjham Rai hỏi Udal, cách của ngươi thật hữu hiệu nhưng làm sao ta luôn được tôn trọng mà không cần phải có chiến tranh? Udal nói, phải làm cho họ sợ hãi để tuân phục ngài.
Sanjham Rai tuyên bố trước bộ tộc, này các bạn, có hàng vạn kẻ thù hung hăng luôn quanh quẩn bên chúng ta. Để bảo vệ các bạn tôi cần những thanh niên dũng mãnh luôn thường trực chiến đấu và tất nhiên họ phải được nuôi sống. Thế này, mỗi tuần trăng một gia đình nộp cho chúng tôi ba phần mười thành quả mà các vị kiếm được. Chúng ta gọi sự kiện này là gì nhỉ? ‘Thuế’ đi, một từ ngữ biểu hiện sự cống hiến tận tụy của các bạn vì sự an toàn của bộ tộc Kukada.
Thời gian trôi qua, Sanjham Rai trở thành người giàu có nhất bộ tộc.
Một ngày, Sanjham Rai tức giận gọi Udal đến nói, bọn bộ tộc man rợ bên kia cánh rừng vừa lập gã Govinda lên làm vua, hơn nữa chúng thu thuế chỉ có hai phần mười và tuyên bố chổ chúng là an toàn nhất. Điều đáng giận là gã đã lôi kéo vài gia đình đang sống tại Kukada di cư sang đó.
Udal suy tư, bọn họ đi hết thì quốc khố của ngài sẽ sớm trống rỗng thôi. Không được! Nhà vua phải cử người chặn các ngã đường để họ không thể tự do đi.
Nhưng ta lấy lý do gì để giữ họ lại, Sanjham Rai than thở, chẳng lẽ lại nói bọn chúng phải ở lại để nạp thuế cho ta.
Từ hôm đó, Sanjham Rai cho người chặn hết các ngã đường từ Kukada sang các vùng lân cận. Bên trong dân chúng truyền tin nhau, vua Govinda là kẻ tàn ác, thích thịt người và không nên đến đó.
Govinda nghe kẻ khác phao tin mình ăn thịt người rất tức giận, nhưng vì không ai có thể ra khỏi Kukada, bèn sai một người lén lút đột nhập vào vùng đất của Sanjham Rai thanh minh.
Nhưng chẳng may, người của Sanjham Rai bắt được kẻ truyền tin. Nhà vua lo lắng hỏi Udal phải xử lý hắn thế nào? Udal nói, phải làm cho người Kukada không nghe không hiểu bọn Govinda nói gì.
Udal miệt mài sáng tạo ra bộ âm thanh mới buộc người Kukada học theo. Con nai phải gọi là con lơ ngơ, con gà phải gọi là con cục tác, giọng phải trầm xuống cho ồ ồ. Thêm nữa, không được nói tôi tên là Udal, phải đảo lộn chủ vị, là Udal tôi tên. Đúng. Như thế. Ồ ồ như thế. Udal hân hoan.
Thời gian nhanh trôi qua. Không người Kukada nào còn nhớ tiếng nói cũ của mình. Họ say mê với ngôn ngữ mới.
Một ngày, Sanjham Rai ra bờ sông dạo chơi và gặp Reva, một người phụ nữ xin đẹp. Ta là vua Sanjham Rai, người dũng mãnh nhất bộ tộc Kukada, nàng có muốn về làm vợ ta? Nhưng tiếc rằng thiếp đã có chồng, thưa nhà vua. Reva từ chối.
Ta thật yêu thích Reva nhưng không biết làm sao có được nàng? Sanjham Rai than thở với Udal.
Rồi Udal triệu tập người của bộ tộc đến và hỏi, các người có biết mình từ đâu mà có? Từ cha mẹ. Cha mẹ các ngươi từ đâu mà có? Từ ông bà. Ông bà các người từ đâu mà có? Từ tổ tiên. Vậy tổ tiên các ngươi từ đâu mà có? Mọi người lặng im. Có một vì vua to lớn hơn trên kia bầu trời, ngài ấy sáng tạo ra con người, muôn thú và Sanjham Rai là sứ giả được giáng xuống để giữ gìn sự sinh tồn của nhân thế. Sanjham Rai là bậc thánh nhân thấu hiểu hết tất cả, lời nói của ngài không thể sai biệt và không ai có thể chối từ yêu cầu của ngài.
Và Sanjham Rai cưới được nàng Reva mà không gặp phải sự khán cự nào.
Sanjham Rai có nhiều bà vợ phải nuôi nên cần một căn nhà thật tiện nghi và lớn. Nhà vua triệu Udal vào trầu. Hôm sau, Udal nói với thần dân: Các bạn hãy nhìn xem bên bộ tộc láng giềng, họ có một cung điện thật nguy nga và tráng lệ, đó là biểu hiện của một sự hùng cường. Vùng Kukada là một miền giàu có và không lý do gì để thua kém họ. Và để chúng ta không bị xấu hổ trước bọn người kém cõi đói, mọi người phải hướng về bộ tộc.
Một ngày Sanjham Rai cảm thấy buồn chán, đứng trên thành lầu hỏi Udal. Làm vua của một bộ tộc nhỏ chẳng thú vị chút nào, đất đai của ta thật hạn hẹp, rất ít người thuần phục, làm sao có thể mở rộng biên giới sang đến tận đường chân trời?
Phải có chiến tranh, Udal đáp. Nhưng bọn dân đen đó luôn thèm muốn một cuộc sống an bình, Sanjham Rai chán nãn nói.
Nghe Udal mách bảo, Sanjham Rai ra tuyên bố trước thần dân. Này các bạn! Các bạn có nhìn thấy bộ tộc Kukada của chúng ta hùng mạnh không? Và sự thịnh vượng này đến từ đâu? Chính nhờ sự thần thánh của các bạn, những con người dũng cảm và siêu vượt lên tất cả. Nhưng các bạn đâu có biết bên ngoài kia còn có những con người chưa tiến hóa kịp và chúng ta có nhiệm vụ vinh quang cao cả là khai hóa họ.
Chẳng lâu sau Sanjham Rai xua quân đánh chiếm nhiều bộ tộc xung quanh, thành lập vương quốc Kukada.
Đến một năm, vương quốc Kukada mất mùa làm nhiều người chết đói, trong khi gia tộc Sanjham Rai và các chiến binh vẫn sống sung túc. Một nông dân nghèo tên Sadhil nói, này mọi người, tại sao chúng ta sống trong đói kém? Vì mọi của cải đều phải đóng góp cho Sanjham Rai, thuế từ ba phần mười đã tăng lên năm phần mười. Chúng ta không thể sống nổi. Chúng ta phải tìm người thay thế hắn.
Vì Sanjham Rai bị người đời bất mãn, mau chóng thua cuộc, bỏ chạy khỏi Kukada. Và Sadhil được tôn lên làm vua.
* * *
“Câu chuyện của ngài thật là thú vị!”. Prithviraj tán thưởng.
“Qua câu chuyện vừa rồi, điều tôi muốn nói với nhà vua, chính lòng yêu thích hiện hữu đã tạo tác và vun đắp thế giới này.”
“Nhưng ta muốn làm thay đổi nó?”
“Theo đại vương, thế nào là một vị vua anh minh?”. Ananda hỏi.
“Ta sẽ cố gắng làm mọi người được no ấm và hạnh phúc”.
“Ngài muốn thần dân có một cuộc sống no ấm để họ tuân phục ngài, ngưỡng mộ ngài, tung hô ngài, duy trì quyền lực của ngài hay trao họ sự hiểu biết mà ngài không nhận được gì cả?”
Sa-va-ri ngập ngừng: “Có nhiều sự lựa chọn như thế ư?”.
“Đúng thế thưa nhà vua! Nếu ngài muốn người Chauhan trở thành một công dân thì phải để họ tuân phục vào một khuôn mẫu định sẵn như truyền thống, có người Bà-la-môn, có người Sát-đế-lị, có người Thu-đà-la hoặc ngài còn có thể tự nghĩ ra nhiều luật lệ khác để trói buộc họ, nô lệ họ. Còn nếu ngài muốn dân Chauhan trở thành những con người thực thụ, con người không lệ thuộc vào bất cứ điều gì và bất cứ ai thì hãy ban cho họ thiện tri thức. Tại nơi nào, con người được quan tâm chứ không phải luật pháp, nơi đó sẽ có hạnh phúc.”
“Hạnh phúc không phải là trạng thái của được thỏa mãn hay sao?”
“Bằng quyền lực chính trị, ngài có thể đem đến cho họ sự mãn phần nào đó về tự do; bằng quyền lực kinh tế, ngài có thể làm cho họ thỏa mãn về đời sống, về sức khỏe, về giáo dục; nhưng dưới sự lệ thuộc, họ không thể nào chấm dứt được đau khổ giày vò bên trong.”
“Nếu vương quốc Chauhan đạt được những thành tựu đó sẽ là một sự tiến bộ vĩ đại rồi!”, nhà vua hân hoan nhìn lên bầu trời.
“Nhưng tại thế giới vô thường này, chẳng ai đủ khả năng duy trì những sự việc cố định như chúng đang là.”
“Như hiện tại, Chauhan có đầy sự phân chia giai cấp bất công. Với vị thế của một quốc vương, làm sao ta có thể vô tâm nhìn những đau khổ của thần dân”. Prithviraj chợt xúc động.
“Ngài muốn thay đổi cấu trúc xã hội?”.
Prithviraj vung tay, ánh mắt sáng lóe như vì sao trên bầu trời đêm: “Ta muốn có một cuộc cải cách, một cuộc cách mạng mang tầm sáng thế”.
“Ngài có những ý tưởng to lớn cho nhân loại, vì lý tưởng, ngài có can đảm từ bỏ mọi quyền lực của mình?”
Prithviraj ngạc nhiên: “Ta dù kiến thức nông cạn cũng biết rằng một cuộc cải cách phải dựa trên quyền lực”.
“Thưa nhà vua, tôn sùng quyền lực vốn là thói thường của con người và tôi cũng chẳng lạ khi quyền lực chính là phương tiện của ngài.”
“Vì sao quyền lực chẳng có tác dụng gì trong một cuộc cải cách?”. Prithviraj ngạc nhiên hỏi.
“Nhà vua có biết có mấy nhóm quyền lực tồn tại trong thế giới này hay không?”
“Xin ngài hãy nói rõ!”
Ananda nói: “Này nhà vua! Trong thế giới hư vọng này, có quyền lực của cưỡng bách gầy dựng trên lòng tham muốn an toàn và sợ hãi của nhân loại. Có quyền lực đạo đức đạt được qua việc trở thành một biểu tượng của lòng tin, của luân lý, của tôn giáo, của tài chính. Có quyền lực của thỏa ước khi một nhóm người trao quyền lãnh đạo cho một ai đó, hoặc là tham gia vào một tổ chức với sự chấp nhận các ràng buộc theo yêu cầu.”
Và Ananda tiếp lời: “Dù phương thức nào của quyền lực được sử dụng: thỏa ước, đạo đức hay cưỡng bách thì mối quan hệ của chiếm hữu luôn hiện diện trong sự liên kết đó và chứa đựng đầy xung đột. Kẻ chiếm hữu muốn duy trì mọi thứ như nó đang là, kẻ bị chiếm hữu lại khát khao tìm kiếm cơ hộ trở thành kẻ tái tục sở hữu một uy quyền.”
Và Ananda chỉ tay lên bầu trời: “Dù phương cách nào của quyền lực được sử dụng, để giữ vững uy quyền, kẻ chiếm hữu phải ẩn nấp vào các giá trị luân lý được thiết lập, hoặc tạo ra các giá trị đạo đức và trở nên một biểu tượng như đa số người muốn.”
Ananda nhìn nhà vua: “Dù phương cách nào của quyền lực được sử dụng, ngay khoảnh khắc mà sự chiếm hữu sinh khởi, không có một đạo đức nào tồn tại: Bởi chiếm hữu không là đạo đức. Bởi vun vén cho quyền lực không là đạo đức. Này nhà vua, ngài hãy ngồi xuống thiền định, trầm lặng quan sát nội tâm của chính mình và ngài sẽ nhìn thấy quyền lực chỉ vun đắp cho quyền lực.”
Prithviraj trầm ngâm: “Có sự thật là vậy”?.
“Đúng là quyền hành không đi cùng đạo đức?”
“Ý của ngài là?”
“Ngài muốn có một cuộc cải cách rộng lớn đúng chứ? Dù ý tưởng của ngài ban đầu có thật sự tốt đẹp, có được diễn tả bằng những ngôn từ vĩ đại, có được khoát dưới bộ mặt đạo đức thuần khiết; thì rốt cuộc, cái đích cuối cùng là ngài sẽ trở thành một người vĩ đại, một thánh nhân tại thế giới mục nát này. Rồi đến khi quyền lực được thâu tóm, vì níu giữ quyền hành ngài sẽ trở nên mù quáng, ngài sẽ trở nên độc đoán, ngài sẽ trở nên nhẫn tâm hơn. Vậy thì, khi đem quyền lực trao lại vào tay một người, trông chờ vào hành động luân lý từ anh ta; so với sự phân chia giai cấp hiện thời liệu có gì khác nhau? Có phải nó vẫn là hiện trạng của sự chiếm hữu, quyền hành và nô lệ.”
Prithviraj hỏi lại, “theo ý của ngài nên duy trì sự hỗn loạn này?”.
“Nhà vua nói đúng, chúng ta đang sống trong hỗn loạn, kể cả những nơi mà được cho là có trật tự. Ngài hãy nhìn thế giới này xem, chúng chứa đầy những giá trị luân lý cao đẹp, nhưng không có một tình yêu nào trong mối quan hệ giữa người và người, họ vẫn sống như quá khứ, một sự lệ thuộc qua bóc lột và lợi dụng lẫn nhau. Rồi đến khi người ta nhận thấy sự phụ thuộc là hủy hoại, tất sẽ có đau khổ và xung đột nảy sinh từ mối liên hệ đó.”
Prithviraj vỗ tay reo mừng, “vì lẽ đó nên ta nói Chauchan phải cần có một cuộc cách mạng”
“Trong lịch sử, nhiều cuộc cách mạng đã xảy ra và chúng thành công về mặt nào đó ở bên ngoài, giai cấp dưới thay thế tầng lớp trên, lý tưởng mới thay thế lý tưởng cũ; nhưng cái nguyên do duy nhất của các cuộc xung đột, sự bóc lột, vẫn an nhiên tồn tại cho tới ngày hôm nay.”
Prithviraj nhìn Ananda như khuyến khích, “ngài có ý tưởng nào tạo ra sự thay đổi nào cho vấn đề vừa đề cập hay không?”
“Có nhiều lý thuyết được nói tới trong quá khứ và đã có rất nhiều người phải hi sinh cho thứ gọi là tiến trình ‘cách mạng’ đó. Đúng là thế giới thực cần một thay đổi lớn. Nhưng cuộc cách mạng phải diễn ra ở bên trong mà nó không có một xung đột nào, không có một đấu tranh nào, không có một phản khán nào và đó phải là lần thay đổi cuối cùng.”
Prithviraj chăm chú nghe, suy nghĩ giây lâu và hỏi lại: “Cuộc cách mạng bên trong và lần thay đổi cuối cùng ư?”.
Ananda hỏi lại: “Nhà vua có biết mình và những con người khác của xã hội này thật giống nhau?”.
“Xin ngài hãy nói rõ hơn!”
“Thưa nhà vua, từ tình yêu thương tận sâu thẳm bên trong khởi lên, ngài đau đớn khi thấy sự phân chia giữa giàu có và nghèo khổ, của quyền lực và nô lệ, của danh vọng và tôi đồi. Ngài nghĩ rằng nó có một nguyên nhân tạo thành kết quả này và muốn kết thúc nó.”
“Đúng, ta thấy rằng tầng lớp trên đã quá tham lam.”
“Nhưng ngài cũng là một thành viên trong xã hội tham lam đó”.
Prithviraj tỏ ra hơi thất vọng: “Ngài nghĩ ta là một người như thế!?”.
“Nhà vua không bằng lòng vì lời nói thật của tôi! Nhưng thế giới này vốn là tấm gương phản chiếu những tham vọng, những ưa thích, những tìm kiếm thỏa mãn, những vui thú và mọi phản ứng ngược lại với chúng của tất cả thế nhân. Xã hội đang phân rã này chính là một phản ánh của tạo tác, của phóng chiếu dục vọng từ ngài và tôi. Bất kỳ hành động nào từ ngài còn chứa đầy bất mãn và tuyệt vọng, một cách mạng như thế chẳng thể nào có kết thúc, nó sẽ là một tiếp tục cho những đòi cải cách khác.”
Prithviraj gìm giọng, đợi chờ câu trả lời thật thỏa mãn: “Thật là Chauhan sẽ không thể có một thay đổi rộng lớn ư?”
“Nhà vua nhìn thấy người Thu-đà-la nghèo khổ, người Bà-la-môn hành động không đúng như điều họ nói và cho rằng Chauhan cần một cách mạng. Nhưng làm thế nào để có thay đổi mà không đối nghịch với xã hội?”
Prithviraj nhìn Ananda trong một chờ đợi: “Đây là vấn đề ta muốn nói với ngài, ta ghĩ rằng, Chauhan cần có một học thuyết giải phóng con người và ngài có thể trao nó cho ta”.
“Một tu sĩ chẳng có tài sản như tôi sẵn lòng cho những lời khuyên với bất cứ ai, nhưng một học thuyết chống lại người khác thì tôi chẳng có”. Ananda lắc đầu nhìn nhà vua. “Khi mà những người vô minh đang gây ra sự hỗn hoạn khắp nơi, trong cái trò chơi của quyền lực và chiếm hữu, nhà vua sẽ làm gì? Chỉ trích. Giúp đỡ. Hay cắt đứt sự liên hệ với họ, tự xây dựng cho mình một nền tảng văn hóa mới mẻ.”
Prithviraj hỏi lại: “Ngài không có ý tưởng tốt lành nào khác ư? Ta lại nghe nói ngài thuyết pháp về giai cấp cho những người Thu-đà-la nghe rất hay?”.
Ananda nói: “Thưa nhà vua! Sự phân chia thế giới này, theo lịch sử, đã thành vết rạn nứt khó lành, và vấn đề đã nằm ngoài mọi kinh nghiệm cá nhân. Vì chúng ta không hiểu rõ chính mình, chẳng biết đích thực gốc nguồn của cuộc sống này là gì? Nên dù bất kỳ học thuyết nào xuất hiện, nó chỉ cổ vũ cho một phản khán, một đấu tranh và tiếp thêm cho những đau khổ chất chồng.”
Ananda nhìn nhà vua: “Và khi đứng trước sự phân chia người Bà-la-môn, người Sát-đế-lị, người Thu-đà-la. Trước những lý tưởng, những thành kiến, những luân lý xã hội được đặt làm nền tảng đã tạo ra bất công, bất bình đẳng; nhà vua sẽ làm gì? Từ một học thuyết hình dung các giá trị bị thiếu vắng ở xã hội này, ngài tập hợp những người có cùng mục đích, cam đoan hướng đến những điều mới mẻ, tách rời luân lý cũ. Nhưng vì tham vọng trở thành cái gì đó - những con người mới có tri thức tiến hóa vượt trội chẳng hạn; ngài hành động bằng cách chống lại những nhóm không cùng lợi ích, chống lại những người không cùng tư tưởng; và chắc chắn, khởi đầu từ chỉ trích, bài bác, cuối cùng tất cả sẽ dẫn đến xung đột. Và kết thúc cho cuộc cải cách này là gì, nếu nhóm của ngài không trở thành một giai cấp mới thay thế, hay sao?”
Ananda ném một hòn đá xuống mặt hồ, chỉ tay lên mặt nước đang xao động và nói: “Một giai cấp mới làm động lực cho cải cách là ý tưởng tồi của lịch sử. Một cách mạng nửa vời. Một cách mạng không tận cùng. Một cách mạng chỉ có những thay đổi bên ngoài; còn bên trong vẫn những con người cũ, những con người có đầy tham lam, thâu lợi, ganh ghét và bạo lực vẫn chưa nhìn rõ mình, thấu biết bản thực của thế giới là gì. Và với những con người này, khi đã có quyền quyền hành, có danh vọng, có tài sản; bất kỳ ai cũng sẽ muốn an toàn, muốn bền vững và làm mọi cách để duy trì những thứ như chúng đang là. Cái tiến trình của quyền lực trong xã hội đó dù khoát lên mình bộ áo nào của đạo đức, của luân lý, của tư tưởng vĩ đại đều muốn lần tìm đến đỉnh cao quyền lực thống trị, để từ đó mà có chiếm hữu và trục lợi. Như thế, Chauhan dù có truất bỏ được quyền hành của người Bà-la-môn, người Thu-đà-la có được quyền bình đẳng hơn, chẳng bao lâu trật tự xã hội cũng trở về hỗn loạn. Lại có những kẻ bóc lột sẽ tinh vi hơn xuất hiện và rồi người bất mãn đứng ra đòi cải cách, tuyên ngôn cần một cuộc cách mạng, y như ngài đang nói với tôi hôm nay.”
Prithviraj hỏi lại: “Ngài chắc rằng sẽ không có nhiều thay đổi?”.
Ananda bật cười: “Tất nhiên xã hội sẽ có những thay đổi bên ngoài vì cách mạng dựa vào một học thuyết, vào các giá trị mới được tạo dựng. Nhưng sau đó thì sao? Chúng ta lại nhân danh chuẩn mực mới, ẩn nấp vào những điều được cho là luân lý và tiếp tục mưu lợi. Vậy thì, một cuộc thay đổi như thế liệu có ích lợi gì?”
Prithviraj trố mắt nhìn Ananda, “như việc phân chia ruộng đất cho người Thu-đà-la cũng là vô ích?”
“Thật là vĩ đại nếu ngài lấy tài sản của mình trao cho họ”
“Ta sẵn lòng trao tất cả tài sản của mình cho những thần dân nghèo khổ của mình”
“Nhưng ngài không thể giải quyết tất cả nhu cầu?”
Prithviraj dạm bước về phía bờ hồ, rồi nói: “Ta sẽ thuyết phục những chủ đất trao tặng một phần tài sản của họ cho kẻ nghèo khó hơn.”
“Thưa nhà vua! Tôi nghĩ những người rộng lượng sẵn lòng chia sẽ những gì mình có, nhưng họ không phải là tất cả.”
Rồi nhà vua quay lại nhìn Ananda, nói hơi cương quyết: “Chế định của pháp luật sẽ thúc bách những kẻ keo kiệt”.
“Ngài định bù đắp tổn thương của người nghèo bằng tài sản cưỡng ép từ người khác? Thế còn những người không tự nguyện bị mất mát của cải, ngài an ủi họ bằng gì?”
Prithviraj tuyên bố chắc nịch, “Có những vấn đề luật pháp phải đứng trên đạo đức và luân lý”
“Đạo đức, luân lý hay luật pháp; những từ ngữ khơi gợi lên cảm giác gì đó rất hay ho, nhưng thật sự, chúng phản ánh ý tưởng đầy tham muốn của con người.”
“Ngoài phương diện từ ngữ, chúng không biểu thị một lý tưởng nào ư?”.
“Thưa nhà vua! Tại xã hội này, chứa đựng trong đó các danh từ gọi là Bà-la-môn, Sát-đế-lị hay Thu-đà-la; tất cả họ là con người đúng chứ?”
Nhà vua gật đầu, “đúng! Ta không phủ nhận”
“Vì tất cả họ là những con người, dù bề ngoài hay tư tưởng bên trong có sự khác biệt, nên cần một đối trọng công bằng. Liệu có lý do gì để cho rằng những người nô lệ đáng thương và kẻ giàu có kia đáng trừng phạt? Chính sự phân chia và cách không hiểu rõ cốt lõi của vấn đề dẫn tư tưởng ngài đến lòng tham muốn phán xét.”
Prithviraj buồn bã nhìn Ananda. Qua dòng suy tưởng bấn loạn, nhà vua chới với, lẽ nào ý tưởng tốt đẹp của mình chẳng đem lại kết quả gì cho Chauhan. “Nếu là một cách mạng bên trong thì phải thế nào?”. Prithviraj thất vọng hỏi.
“Cái Tôi luôn hướng đến sự an toàn. Nó sợ hãi mọi thứ thay đổi. Trong sự cấp thiết, nó làm mọi cách biến người khác trở thành cái gì đó mà ít ảnh hưởng đến mình nhất. Một cách mạng như thế chỉ là sự bổ sung. Một cách mạng như thế không là cơ bản. Một cách mạng đột biến là phải thay đổi chính mình. Một cách mạng cuối cùng phải khởi đầu từ ngài, từ hành động thâm nhập vào thiện tri thức, từ việc tự khám phá mình mà không lệ thuộc vào bất cứ ai. Hãy thiền định. Thiền định đến khi ngài hiểu rõ thế giới này là gì, tất thì, cốt lõi của mọi vấn đều được sáng tỏ”.
“Và nó cần rất nhiều nổ lực?”
“Ngài dùng nổ lực để làm gì?”
“Để đạt đến một mốc tiến bộ lớn, ta cần nổ lực để thúc đẩy ý chí.”
“Như nhà vua nói, nổ lực dùng để tìm kiếm một kết quả đặt dưới sự kiểm soát của một cái tôi. Rồi từ nỗ lực đó lại tạo ra ham muốn. Từ ham muốn tạo ra sự phụ thuộc. Từ phụ thuộc tạo ra sự xung đột. Và kết quả cuối cùng là chấm dứt cho tiến trình tiến hóa.”
“Nó là sự an nhiên?”
“Đúng! Phải là tiến trình của tự nhiên”
“Sự thay đổi đó mang tính chất một cách mạng tôn giáo?”, Prithviraj chăm chú hỏi.
“Nhà vua có thể dùng bất cứ từ ngữ nào để gọi nó. Nhưng cuộc cách mạng đó không là một tái hiện của lịch sử, nên tiến trình của nó chắn chắn không là sửa lại trên những gì hiện có, một hệ thống, một cấu trúc xã hội, một tôn giáo, một mớ luân lý trói buộc. Tại đó, xã hội sẽ là một thống nhất tổng thể mà không có sự phân chia nào.”
“Nhưng làm thế nào để có thống nhất khi còn niềm tin về giai cấp, khi còn quyền thống trị của một nhóm người, khi còn người đang tìm kiếm quyền lực, khi còn người giàu có và vô số kẻ thiếu thốn?”, Prithviraj Chauhan hỏi.
“Chúng ta muốn có tiến hóa nhưng lại sợ hãi đập nát thói quen, sợ hãi đánh mất sở hữu; và thay vì tìm một tái sinh cơ bản tại bên trong, chúng ta chọn cách chấp vá trên tàn mảnh của thoái hóa.”
“Cách mạng tôn giáo là lựa chọn duy nhất cho chúng ta?”
“Một cách mạng bên trong không gây bất kỳ một xung đột hay phản ứng nào từ xã hội. Bạn chỉ từ bỏ cái nền tảng của những giá trị cũ đặt trên tham vọng, ganh tị, quyền hành, hay chiếm hữu, từ suy nghĩ của chính mình. Cách mạng của nhận thức là phương cách duy nhất giúp con người tiến hóa, bởi vì, từng có nhiều cách mạng khác trong lịch sử đã thất bại.”
“Để đạt đến xã hội đó chúng ta cần có bao nhiêu thời gian?”
“Tinh thần là thứ phi thời gian. Còn nhận thức thời gian, tức còn sự lệ thuộc.”
“Nguyên nhân nào gây mầm mống cho ý tưởng một cuộc cách mạng?”
“Trên tổng thể có rất nhiều lý do dẫn đến một cuộc cách mạng, dù bên ngoài hay bên trong; nhưng cơ bản, nguyên nhân vẫn là sự sợ hãi về một mối đe dọa. Ví như ngài rất thích con thuyền, thường chèo nó ra hồ dạo chơi; và đến một ngày con thuyền bất ngờ chìm đắm, ngài cũng phải vứt bỏ nó để tẩu thoát.”
“Ngài nghĩ thế nào về vương triều Chauhan?”
Ananda nói: “Tại ban đầu, có một nhóm người sợ hãi cho sự an toàn, họ trao tự do của mình cho tộc trưởng để được nhận sự hướng dẫn của ông ấy, đổi lại tù trưởng nhận được lợi ích nào đó từ bộ lạc. Mối quan hệ ban đầu đó rất thuần chất. Nhưng rồi không lâu sau. Một ngày người ta nhận ra có rất nhiều lợi lộc đằng sau chức danh đó, thế là xã hội bắt đầu chuyển sang xu hướng chiếm hữu và thỏa mãn rõ rệt hơn.”
Ananda thuận tay xếp những chiếc lá cây thành một vòng tròn, rồi nói: “Chính trị rõ ràng là một sản phẩm của xã hội, nơi người lãnh đạo có quyền chiếm hữu và dân chúng có quyền tìm kiếm thỏa mãn. Nhưng rồi, tham vọng quyền lực tuyệt đối đã đẩy chính trị lên một mức độ khác hơn, sự cai trị. Tại đó, dân chúng có nhiệm vụ phục vụ triều đình và hoàng đế trở nên một quyền lực vô biên. Vua tin mình là hiện thân của sự cứu rỗi, có nhân cách bất khả xâm phạm và hành động điều hòa quốc gia trở thành một biểu hiện của ban phát ơn huệ. ”
Và Ananda xóa tan vòng lá vừa xếp: “Vì hoàng đế nằm trên nhung lụa quá lâu nên quên mất mình là một sản phẩm của xã hội, tức là nơi mà người ta tìm kiếm sự thỏa mãn, và bỏ quên người tạo ra mình. Thế là xã hội, theo thói quen, săn tìm thỏa mãn mới ở các thế lực khác và điều đó đã gây ra chiến tranh và xung đột.”
Ananda nhặt tàn lá vung bay lên theo ngọn gió: “Rồi đến một ngày người ta sẽ nhận ra chính trị phản bội lại con người, thay vì tìm cách giải quyết vấn đề, triều đình chỉ chăm lo duy trì quyền lực của chính mình và thích tung ra các lời hứa.”
“Đó là thời điểm người ta thôi phụ thuộc vào quyền lực?”
“Khi nhân loại nhận ra tự do và hạnh phúc chính là không phụ thuộc vào gì cả, chính trị sẽ trở thành một biểu tượng.”
“Nhưng ta không chắc sẽ có nhiều người chịu thay đổi mình như ngài nói.”
“Thời khắc để con người quay về với chính mình chẳng khác nào mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Khi khỏe mạnh anh ta chẳng hề đoái hoài tới người chữa bệnh, nhưng điều này sẽ thay đổi khi cơ thể của anh ta đột nhiên suy nhượt.”
“Ta muốn biết về thời khắc?”
“Phương thuốc đã có sẵn. Còn sự kiện chắc ngài cũng nhìn thấy phần nào.”
“Ngài muốn nói đội quân Mamluk sẽ xâm lăng Chauhan?”
“Trong một sự kiện được định bởi nghiệp quả, không có cách nào khác hơn là chấp nhận nó và tìm cách làm giảm thiểu thiệt hại nhân sinh.”