- DẤU CHÂN QUA
Nắng sớm cuối xuân không làm tươi thêm sắc hoa trước thềm chùa. Khóm trúc góp mặt nơi sân từ khi chùa ra đời, nay vẫn xanh màu lá. Cảnh vật u tịch bên vẻ thản nhiên của đức Quán Âm mà phong thái vẫn thượng tồn qua trận hỏa tai và có duyên về an vị tại đây hồi năm 1993 do công gìn giữ và tu bổ của thầy Minh Bảo, một pháp hữu đồng khoa của thầy Tự Lực viện chủ.
- - Việc thờ chư linh bắt đầu từ khoảng năm 1994, sau khi một đạo hữu có người thân bị tai nạn tại một tiểu bang xa, Arizona. Tôi đắn đo trước khi nhận lời, từ đó đạo tràng nhận hương khói cho các vong linh được ký tự.
Việc ứng phú của chư Tăng cũng như thờ linh tại nhà hậu được xem như một tập truyền tại quê nhà và hành vi phụng tự ấy khiến một phần giang sơn của Như Lai trở thành từ đường của nhiều gia đình. Nhưng, quan niệm về sinh hoạt tín ngưỡng như trên, ban đầu không nằm trong chủ trương của Từ Lực sư trưởng, mà khi còn là thanh niên xuất gia, người đã mang ý nguyện và tâm nguyện hình thành một cơ sở tập chú vào việc học thiền và hành thiền với đối tượng không chỉ là người đồng hương tại địa phương. Người đã đắn đo và thực sự đắn đo khi rời bỏ một trong những chủ trương ban đầu của mình để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của đại chúng Phật tử, điều có thể giải thích như sự dung hòa cần thiết giữa lý tưởng hạnh nguyện bản thân và thực tế khách quan của xã hội.
- Dấu chân xưa
- ... Sau gợi ý của mấy vị tôn đức, tôi quyết định ngưng việc theo đuổi nốt chương trình cao học tại CSU Hayward và công việc làm bán thời gian để dành trọn thời giờ và nỗ lực cho công việc hoằng pháp theo kế hoạch và chương trình được đề ra. Việc di chuyển đến địa chỉ mới ở Calaroga là bước đầu trong việc thực hiện chương trình nói trên.
Tại địa điểm mới, một cơ sở được mang tên mới Trung Tâm Phật Giáo Hayward (Hayward Buddhist Center), sự hài danh không ngoài mục đích đem lại một danh xưng thông dụng trong sự giao tiếp với chánh quyền và mọi người bản xứ. Thực chất, với người đồng hương và trong bản chất sinh hoạt chính yếu, Trung Tâm là một đạo tràng với hai buổi công phu dành cho tăng sĩ và sinh hoạt tôn giáo dành cho thập phương vào hai ngày chủ nhật thứ nhất và thứ ba trong tháng.
- Trì tụng chân kinh tập nhìn sâu để hiểu
Thực hành chánh niệm nguyện thấy rõ mà thương
Sinh học tu học với hình thức ngày Quán Niệm đã được tổ chức thường xuyên vào ngày chủ nhật đầu của mỗi tháng. Ngày Quan Niệm thứ nhất khai diễn vào 15-6-1991, chừng nột tháng sau khi Trung Tâm khởi sự đặt định giềng mối, nói lên sự nóng lòng của người thực thi xem nhu cầu tu học là sự cứu cấp cho thân tâm càng thực hiện sớm được càng tốt. Và từ đó, những nỗ lực dành cho tu học có tổ chức dài ngày hơn như Khóa Tu Hai Ngày, Khóa Tập Sự Xuất Gia trở thành định chế tu học thường xuyên của Trung Tâm. Tuy ra đời không sớm nhưng hoạt động tu học tại địa phương đã được người sang lập và tổ chức nên nó, định chế hóa một cách chặt chẽ và mau lẹ hiếm thấy.
Người đã từng vận dụng dung cách và đúng mức những điều học được vào việc quản trị, điều hành công việc của nhà chùa cũg là người đã thực thi, vận dụng quan niệm khế cơ vào việc tổ chức khóa tu dài ngày (5-7 ngày) dưới danh xưng Khóa Tập Sự Xuất Gia, một mô thức thay thế cho khóa Thọ Bát Quan Trai ở quê nhà, trong đó đối tượng được nới rộng cho mọi thành phần, mọi lứa tuổi, mọi trình độ và nội dung tu học được soạn thảo phù hợp với nhu cầu phổ cập Phật pháp đến đại chúng. Sáng kiến ấy đã thu hút nhân số tham dự, có lúc lên đến nột trăm người mỗi khóa, sử dung cả ngôn ngữ bản địa, chỉ dấu sự hiện diện của thế hệ thứ hai và người bản xứ trong số tham dự viên. Người học tu như được khuyến khích đến con đường rộng mở này với món tùy thân quan trọng hơn cả được ân cần nhắc nhở mang theo là tấm lòng nhiệt thành và rộng mở, "most importantly, bring a warm heart and open mind", một thông báo của nhà chùa đã ghi như thế.
Mấy năm đầu thâp niên 90 của thế kỷ trước, sự gia tăng số lượng thiện tín địa phương khiến khu vực hành lễ trong chùa, dù đã được nới rộng, cũng không đủ cung ứng. Sự phát triển hoạt động của tổ chức chẳng những đặt ra vấn đề cần xây dựng một nơi thờ phụng khang trang hơn mà còn đòi hỏi nhân sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng cho đại chúng. Tháng 5 năm 1994, chúng xuất gia được thành lập tại Trung Tâm. Về một phương diện nào đó, sự kiện trên là một "biến cố". Về mặt tổ chức, việc ấy giúp nhà chùa thoát khỏi nỗi khó khăn của thế nhất tăng nhất tự, mặt khác, xác định hoàn cảnh thuận tiện cho việc kế thế, truyền lưu đạo mạch tại địa phương.
Thực ra, từ lâu, người chủ trì Phật sự ở Hayward đã hoạch định và sơ thảo một chương trình đào tạo tăng tài trong đó thời gian đào tạo là sáu năm, để khi tốt nghiệp, người tăng, ni sinh hoàn tất được chương trình đại học của thế học cùng với cấp cao đẳng Phật học.
Từ bấy đến nay, đạo tràng khiêm tốn ở Hayward đã là "alma mater" của mười sáu vị tăng ni lấy chữ đầu pháp tự là Phổ, trong đó lớn tuổi nhất là Phổ Hòa (82 tuổi) và trẻ nhất là Phổ Ngọc (27 tuổi) cũng vừa thọ trai giới năm vừa rồi. Riêng vị nữ tu duy nhất thường trú tại Trung Tâm, Phổ Châu xuất gia năm 1998, rõ rệt có khả năng của người quán xuyến công việc hoằng pháp trong một hoàn cảnh khác biệt, với đầy đủ ý thức và sứ mạng của ộmt nhà truyền giáo cho người bản địa.
Trong ba mươi năm nương náo nơi thiền môn, với tinh thần năng động hiếm có, người sư trưởng của Hayward đã tham dự nhiều đại hội hay họp mặt của nhiều tổ chức lớn nhỏ. Tập lưu ảnh ngày một dày thêm và trong muôn ngàn sự việc xảy ra, người khó có thể chọn ra được những dấu ấn nổi trội hơn cả. Nhưng cũng như một người thiền giả từng trải, người nhận ra những ý nghĩa thâm sâu và giá trị không nhỏ từ trong những sự việc xem như tầm thường. Đó có thể là buổi nghe giảng mà người đã thức giác về lẽ trùng trùng duyên khởi, sự tương hợp, tương tác kỳ diệu của tạo vật thể hiện trên từng sinh vật cỏn con như chiếc lá lìa cành hay con sâu rời tổ.
Đó có thể là những đêm thiền trà tại Kim Sơn hay một tu việc nào đó, sau khi làm xong vai trò của người trà giả, người đã bất chợt cảm được sau vị ngòn ngọt trên đầu lưỡi của ngụm trà sau cùng "sự thuần khiết và hòa hợp, sự nhiệm mầu của lòng trắc ẩn hỗ tương, tính lãng mạng của trật tự xã hội"(1) hay uẩn xúc là tìm thấy được trong hương vị thanh đạm của thức uống này tinh túy của tam giáo đồng lưu như có người đã tinh tế nhận thấy "cái kiệm lời ngọt ngào của Khổng, cái chan chát của Lão và hương thanh thoát của Thích Ca Mâu Ni"(2).
Đó có thể là những rung động sâu xa của tâm hồn khi bắt gặp được nét tinh anh phảng phất của đóa mộc lan lẻ loi xuất hiện ngoài khung cửa sổ nhỏ của căn phòng "guest house" ở tu viện Kim Sơn năm nào.
- Trái tim trăm nhịp
Người đã từng dí dỏm đặt thú yêu thơ bên cạnh thú ăn cơm cháy. Điều này chẳng khôi hài nếu ta hiểu rằng hai thú trên đều cần đến sự nhẩn nha, chậm rải khi thưởng thức. Người đã giải thích rằng thơ chỉ gần gũi nếu cảm được người và, với người, thơ được chọn như một dụng cụ làm đậm đà thêm ý nghĩa bài thuyết giảng. Như thế, dầu trong chức năng ấy, thơ cũng là của riêng người. Xem thơ được chọn, người ta có thể hình dung ra phần nào tâm hồn người đã lựa chọn chúng.
Đó là ý thức nồng nàn trước sự nổi trôi của vận nước và thân phận mình, một ý thức thời đại không chỉ của lứa tuổi thanh xuân như người sưu tập mà còn chi phối thành phần những thế hệ trên nữa "lòng ta chan chứa nguồn sinh lực/quyết tạo mùa xuân đất nước mình" (Huyền Không).
Đó là nổi canh cánh về quê nhà, về người thân, nhất là trong thập niên đầu của cuộc sống tha hương. Nỗi lòng ấy bàng bạc trong lượng bài được chọn, khiến người đọc khó có thể phân biệt được đâu là ý thơ của tác giả và đâu là tâm sự mà người sưu tập muốn mượn để gửi gắm:
- "Lại một mùa xuân trên đất khách
Thương mình những kẻ sống lang thang
Nhìn nhau ánh mắt buồn tê tái
Thầm hỏi: ngày mai xuân đã sang".
Có thể hôm trước người trở về chùa mẹ đẻ được thêm một lần chìm đắm vào thiên nhiên, nơi có nội cỏ trải thảm đón mời, chim rừng chẳng hề thóc mách. Có thể, nắng sớm đánh thức người với nhã ý muốn người được chứng nghiệm một điều vào buổi tinh khôi của trời đất. Nhưng, đích thực là ánh mắt người đã tao ngộ đóa mộc lan trước sân vườn, khi người mở rộng chiếc cửa sổ để đón nhận cùng một lúc ánh nắng ban mai và khí trời ngan ngát hương rừng. Sau phút hội ngộ ấy, có thể, người không dám rời phòng để đến gần bông hoa. Không phải vì ngại bông hoa không có thực mà sợ rằng mình ra khỏi cái thực tại hiện hữu.
Sứ điệp của điều mà đóa mộc lan được hcọn để hiện thân có lẽ là giây phút đốn ngộ của tâm tư người, mà đóa hoa xinh trở thành tác nhân xúc tác. Điều mà ngưởi tỉnh thức đạt được đã không thể hiện được trên bức hình, ngoại trừ không gian của nó là biên giới dẫn đến sự tỉnh thức. Trong nhận thức như thế, đóa hoa mộc lan tại Kim Sơn mà người tăng sĩ Hayward tương ngộ như trùng vị với bông hoa thược dược bên hàng dậu của Quách Thoại năm nào. Hai tâm hồn ấy, tuy không cùng khởi điểm lại có cơ hội để đồng quy:
- Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.
Cây mộc lan và ngôi nhà có cửa sổ nhỏ năm xưa, từ lâu đã tàn trong lửa đỏ. Điều ấy không còn quan trọng nữa khi người tăng nhân đã thấy được điều người muốn tìm và khao khát tìm. Ấn tượng ấy hẳn sẽ đến bên người mỗi khi từ tăng phòng Phổ Từ vào đêm trăng sáng, câu thơ mà người cặm cụi chép vào tay tự năm nào trở về như còn để lại dấu chân qua:
- Như trăng chiếu xuống khắp trần thế
Mỗi một con người một đóa hoa.
(Huyền Không, sđd, tr. 117)
- 10.12.2007
(1) "It (teamism) inculcates purity and armony, the mystery of mutual charity, the romanticism of the social order" (Kakuzo Okakura, The Book Of Tea, Dover Publications, 1964, 1).
(2) "In the liquid amber within the ivory-porcelain, the initiated may touch the sweet reticence of Confucius, the piquancy of Lao Tzu, and the ethereal aroma of Sakyamuni himself" (sđd, 2).
(3) 100 Bài Thơ Của Nhiều Tác Giả, Thích Từ Lực, Trung Tâm Phật Giáo Hayward, 2990, 106 trang.