Re: VƯỜN NAI
Đã gửi: 27/07/15 17:13
Phần III - PHỤ CHÚ
SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT TRÊN TÂM
Bốn tướng sanh, già, bệnh, chết được nhìn trên một tâm.SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT TRÊN TÂM
1. SANH: Niệm được đẻ ra. Có ra niệm, thành ra ý niệm. Thành ra một ý nghĩ. Có khởi nghĩ. Tình trạng dấy niệm, khởi niệm.
2. GIÀ: Niệm được nẩy nở, lớn lên, lan ra, kéo dài. Thành ra dòng niệm, chuỗi niệm, thành dòng tư tưởng. Trải qua một thời gian. Đơn vị thời gian này được tính bằng sát na (một sát na bằng 1/90 niệm). Một niệm, một ý niệm trải qua nhiều sát na thì trở nên già đi.
Khi già đi thì nó khắn chặt, kết đọng. Niệm, ý niệm, khư khư, dai dẳng, lằng nhằng. Tình trạng niệm chồng niệm, niệm niệm liên tục.
3. BỆNH: Niệm, ý niệm, dòng tư tưởng bị lở lói, đổi tới đổi lui, bị đứt quảng, bất chừng, có quên, có lẫn, có chồng chéo, có nhập cục, lỗ đỗ, rời rạc (như bị mối ăn). Tình trạng niệm bị suy thoái.
Lại bệnh vì có vi trùng độc (tham), phát bệnh nóng sốt (sân), bệnh lạnh rét (si). Nóng lạnh không chừng, tức âm - dương bất hòa sinh ra các bệnh khác (mạn, nghi v.v...).
4. CHẾT: Niệm, ý niệm bị tan hoại, biến mất. Tình trạng niệm vô thường (tự diệt), ở dạng lặng lờ, vô ký, mờ mịt, cứng đơ.
Bốn tình trạng này đưa đến sự bất an trong tâm. Thì đây là khổ.
Cái khổ, sự khổ nầy mở đầu từ sanh. Nên sanh là khổ. Có sanh nên có khổ.
Ở trên thân xác thì có sanh ra thân xác nên có già, bệnh, chết xảy ra trên xác thân, nên khổ thân.
Ở trên tâm hồn, thì có sanh ra niệm. Niệm tạo thành thân xác của dòng tư tưởng, nên có già, bệnh, chết xảy ra trên thân xác niệm. Đây là cái khổ và là nguồn gốc khổ (Làm khổ tâm mà khổ cả thân).
Sinh hoạt tư tưởng của con người là sinh hoạt trong vòng bốn tướng sanh, già, bệnh, chết. Hết chu kỳ sanh - chết này lại tiếp nối sanh - chết khác. Cứ như vậy mà diễn ra. Đây là sinh hoạt trong vòng luân hồi. Một dòng sanh - chết bất tận. Đây là cõi khổ mênh mông có thể gọi là cõi Ta bà vậy. (Ta bà: Tạp ác, tạp sanh thế giới. Cõi đầy dẫy viếc ác xấu, đủ các loại chúng sanh).
Và đúng vậy, từ cõi Ta bà trong tâm mà chiêu cảm cảnh Ta bà thuộc thế giới hiện tượng thành cõi luân hồi cụ thể, có đủ sáu loài: trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
- TỨ NIỆM XỨ
Vậy Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ nhớ đến, hay bốn chỗ để ghi lòng.
Hoặc có thể là ghi lòng bốn chỗ, nhớ bốn chỗ, hay bốn nhớ. Ta có thể gọi là Bốn nhớ. Bốn chỗ này cần phải quan tâm, phải để ý, chú ý đến. Bốn đó là:
- 1. Thân.
2. Thọ.
3. Tâm.
4. Pháp.
Quán Tứ Niệm Xứ, nhằm quán để trừ tâm dính mắc, chấp bám trên bốn chỗ:
- - Trừ tâm dính mắc trên Thân.
- Trừ tâm dính mắc trên Thọ.
- Trừ tâm dính mắc trên Tâm.
- Trừ tâm dính mắc trên Pháp.
Tâm vọng thức hay là ý niệm phân biệt. Thế nên quán tức là trừ ý niệm phân biệt. Gọn hơn là trừ niệm phân biệt, hay gọn hơn nữa là trừ niệm.
Niệm là vọng, không thật, không nên bám vào cái không thật, nên phải bằng trí mà rõ niệm. Xả niệm tức là xả vọng, xả cái giả, lìa cái giả - bỏ đi cái vọng (xả là bỏ).
Như vậy quán hay tu Tứ Niệm Xứ là:
Xả niệm, xả đến tận cùng. Có niệm là xả, dù niệm thiện hay ác. Vì có niệm là có chấp một trong bốn chỗ, chấp là khổ. Phải xả triệt để và rồi cũng phải xả luôn hạnh xả.
- ĐỐN TIỆM QUA PHÁP THIỀN TỨ NIỆM XỨ
I. ĐỐN TIỆM
"Này các Tỳ kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỳ kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỳ kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong vòng bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỳ kheo, không cần gì đến bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong vòng sáu tháng, trong năm tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỳ kheo, không cần gì đến nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn(*)... Này các Tỳ kheo đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ".
Qua lời kinh đã thấy rõ vấn đề thời gian cho việc tu pháp Tứ Niệm Xứ. Thời gian này có hai mức rõ rệt: hoặc là bảy năm, hoặc là bảy ngày. Điều này cho phép ta nói rằng: pháp thiền Tứ Niệm Xứ có Đốn và có Tiệm (Đốn là mau, Tiệm là chậm). Đốn là bảy ngày, Tiệm là bảy năm.
1. Thiền Tiệm (Niệm Xứ Tiệm):
Tiệm hay tiệm tiến là chậm từ từ mà tiến đến, tiến lên hay tiến tới mục tiêu. Hành thiền Tứ Niệm Xứ, nếu từng bước quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp, quán từ từ diệt lần lần những niệm trên thân, thọ, tâm, pháp, diệt từng tâm, từng niệm một thì đây là lối hành Thiền tiệm.
Lối tu quán niệm để diệt niệm. Diệt niệm sanh ra là một điều đúng. Vì có sanh nên có khổ não ưu bi. Từ nơi niệm mà có tham, sân, si, mạn, nghi v.v... có chấp thân, chấp tâm, chấp cảnh sắc, có chấp căn, trần, thức. Có khổ xảy ra.
Nhưng niệm thì nhiều vô số ở một con người. Vì vậy để diệt sạch hết tất cả niệm thì công trình này phải thật dài hạn. Theo kinh thì phải mất bảy năm. Thật ra với thời gian bảy năm, không phải là dài lâu so với đời người. Với thời gian này quá "khiêm nhượng" để diệt sách tất cả niệm ở một con người, nếu bằng cách diệt trừ lần lần, từng niệm một.
Thế nên thời gian bảy năm là xong, hay gần xong là một thời gian quá lý tưởng! Việc này khó có người đạt được.
Xong thì được chánh trí, được Niết bàn. Chưa xong thì được quả Bất hoàn tức là quả thứ ba A na hàm, được hữu dư y Niết bàn. Với thời gian này được quả Bất hoàn là khả dỉ, còn đối quả Niết bàn thì thật xa vời vợi. Thời gian bảy năm vì thế có thể gọi là thời gian "khuyến khích" hơn là thời gian hạn định.
Trong pháp thiền này, phải luôn luôn có sự đối đầu, luôn có hai: Có ta và niệm. Lại thấy "ta" là thiệt (cái trí quán), cái "niệm" là thiệt (cái bị quán). Và niệm sanh khổ cũng là thiệt (niệm thiệt, sanh thiệt, khổ thiệt). Thấy cái nào cũng thiệt cả đến tham, sân, si... cũng cho là thiệt.
Cho đến thấy cái "diệt", "sự diệt" cũng thiệt luôn. Niệm sanh cũng là thiệt, niệm diệt cũng là thiệt. Do vì thấy món nào cũng là thiệt hết, nên vô tình chấp pháp có tự tánh mà không hay. Thấy pháp có tự tánh là trái với tánh thể, trái với chân thật, trái Niết bàn, nên ra công rất nhiều, rất lâu mà chậm đến mục tiêu.
Chính vì thấy thiệt ở các món nên thành ra chướng ngại, sự thật chúng nào có thiệt. Chúng chỉ là huyễn thôi. Có mà chỉ là giả có.
Con đường tiệm tu. Thiền tiệm ngỡ rằng dễ hành mà lại có chướng ngại không hay nên lại là khó (dễ đầu khó cuối). Vì rằng hành Thiền tiệm tu, Thiền tiệm là hành thiền ở trên cái tướng của tâm. Chấp vào tướng mà tu, nên đối với tâm chân thật nó chỉ là cái bóng mà thôi. Thế nên thật khó nối ráp, hòa nhập tâm thể, nên khó chứng ngộ Niết bàn.
Niệm đã là thật thì làm sao diệt được. Cố diệt nên chỉ sanh mệt mỏi. Tiếc thay! Không hiểu ra niệm chỉ là một bóng trong tâm mà thôi!
Đó chính vì không nhận ra tự tâm, mà lại khởi tu. Cõi Niết bàn là ở ngay tại tự tâm. Thế nên khó chứng, khó đạt đến Niết bàn là vậy. Chỉ tạm thời có được hữu dư y Niết bàn, một thứ Niết bàn giả. Tu theo Thiền tiệm là xây dựng nhân trái quả (gieo nhân sanh diệt). Nhân sanh diệt nên quả sanh diệt mà Niết bàn lại là vô sanh. Nên không vào được Niết bàn.
Đối pháp Tứ Đế có bốn bước, thì Thiền gọi là tiệm là khởi hành từ bước thứ tư, từ Đạo đế.
2. Thiền Đốn (Niệm Xứ Đốn):
Đốn là nhanh lẹ, mau chóng. Thiền Đốn là con đường hành thiền mau lẹ, nhanh chóng đến mục tiêu. Là con đường hành thiền mau đến Niết bàn, chóng hòa nhập Niết Bàn. Con đường thiền này vì chóng trừ Tập nhân, chóng giải khổ nên chóng chứng Niết bàn.
Thiền này đi từ ngộ mà tu, nên được gọi là Thiền đốn ngộ.
Với pháp Tứ Đế có bốn bước, thì người gọi là hành Thiền đốn ngộ là người khởi hành từ bước thứ ba, từ Diệt đế. Người đến bước thứ ba của Tứ đế, được nghe, được chỉ cho thấy về cõi tịch diệt, người này ngay đây nhận ra được cõi tịch diệt tự nơi lòng mình. Nhận ra cõi tịch diệt tức hay ra được cõi vắng lặng an vui đã sẵn nơi chính mình. Đây được gọi là ngộ.
Ngộ "tịch diệt" là ngộ cõi Niết bàn. Nơi đây vắng bặt mọi khổ đau, không có bóng dáng phiền não. Vô minh mất hút. Tham, sân, si, mạn, nghi... rõ ra là không thật, chúng hoàn toàn không dính dáng, không có mặt trong đây. Bao nhiêu niệm lự cũng không có nốt. Vắng và vắng, bặt và bặt - là "tịch diệt". Đây chính là tánh tự tâm, tánh chân thật của tâm chân thật (tâm bản thể). Tánh này trong sáng rõ ràng, không vật, rỗng không, thênh thang trùm khắp, chan hòa bất động, như như, sừng sững không lay động (Cũng gọi là tánh thật của tham, sân, si..., tánh thật của phiền não).
Vì vậy tánh này được gọi là tánh không, là chơn không. Tánh không này đích thực là tánh mình, là mặt mũi xưa nay của chính mình, là tự tánh, là thân chân thật. Đây mới thiệt là cái thật nhất. Ngoài ra không có chi thật cả.
Người một phen ngộ tánh này, biết rõ rằng tham, sân, si v.v... dù có mà không thật; niệm dù có mà không thật. Cái khổ, sự khổ dù có mà không thật v.v... tất cả những cái đã từng cho là có thiệt thảy đều là không thật, chúng chỉ là giả có mà thôi (Khổ đế, Tập đến chỉ có với người mê, là thật khi đang mê).
Chúng chỉ như là bóng trong gương, trăng đáy nước, chớp trong trời không. Có chỉ là giả có, có như huyễn, như ảo mà thôi. Chúng nó dù có và diễn ra trong tâm, nhưng chúng đều mang tánh chất của tâm. Thành ra cái tánh thật của chúng cũng chỉ là tánh tự tâm, cũng chỉ là tánh không (Không là tánh của tâm).
Niệm, tham, sân, si ..., tánh thật của chúng cũng thảy là tánh không. Vì tánh thật của chúng là tánh không, nên chúng không thật có. Chúng giống như những bọt nước có ra từ nước vậy. Bọt nào không mang tánh nước, không mang chất ướt. Ướt là tánh nước nên cũng là tánh bọt. Vậy khi bọt tan thì về nước. Dạng bọt thì không thật mà chất ướt, nước mới thật.
Như chất bọt côca côla chính là chất nước côca côla.
Lại như những bóng trăng trong nước. Bóng trăng nào không mang tánh nước, không mang chất ước. Thế nên tánh bóng trăng chính là tánh nước. Tánh nước là ướt mới thật, còn trăng trong nước thấy như có mà nào có thật đâu. Bóng trăng chỉ là giả có thôi!
Cũng giống như bóng trong gương vậy. Bóng trong gương có đó mà chúng đều phải mang tánh của gương. Tánh của gương là sáng soi, trong suốt, thì bóng phải mang tánh trong suốt ấy. Vì vậy bóng trong gương có nhưng không thật, cái thật là tánh trong suốt của gương.
Rồi lại như có sấm chớp, có tối sáng trong hư không. Sấm chớp, tối sáng thấy dường như có nhưng thực ra chúng không thật có. Vì chúng có từ hư không nên phải mang tánh hư không. Mà tánh hư không là rỗng không, nên chúng cũng phải mang tảnh rỗng không. Đã rỗng nên chúng không thật có, có nháng lửa, có sấm rền, có tối, có sáng, mà thật thì không, nên rồi chúng có mà không. Chúng là giả, còn tánh rỗng không của hư không mới là thật.
Người ngộ, rõ được niệm, tham, sân, si... như vậy.
Nhưng dù có ngộ mà người ấy chưa phải là xong, vẫn còn dư tập, vẫn còn tham, sân, si, vẫn còn niệm trong lòng nên vẫn phải còn tu. Người này phải xử dụng Tứ Niệm Xứ để tu, để phá chấp thân, chấp tâm, chấp cảnh sắc (ngộ là tình trạng "hay ra" sự thật liền đó tức thì, tức khắc. Nhưng dư tập hãy còn. Ngay khi ngộ không có thời gian).
Có điều người này đã thấy rõ sự thực ở ngay tâm mình, rõ thế nào là tâm ta và thế nào là niệm hư vọng. Rõ tánh tâm và tánh niệm, tánh tham, sân, si v.v... (người này đã phát sanh trí huệ, thấy đúng như thật).
Giờ đây người tu cũng còn có niệm, nhưng không phải đối đầu để diệt trừ nữa. Không còn gây nên cảnh chiến tranh mà tâm làm chiến trường nữa. Người đã ngộ tâm, ngộ tánh nên rõ niệm là hư vọng, tham, sân, si cũng là hư vọng, như là huyễn, là bóng nên không còn hơn thua, xua đuổi, hủy diệt gì nữa. Chúng là bóng nên không trừ (khi đã gọi là ngộ thì bao nhiêu lầm mê, chấp bám, bao loạn tâm lọan tưởng ngay đó sụp đổ cái ào. Cái ngu, cái chấp muôn đời liền đó không còn nữa. Rõ ràng sự thật gọi là kiến tánh. Từ đây có kiến giải chân chánh mà khởi tu.
Trừ bóng là si, là ngu. Cố trừ bóng là tham, sân - tự mình chuốc khổ, chuốc nhọc nhằn. Người này không làm việc: muốn gương sạch lại gia công chùi bóng, lau bóng. Muốn nước trong lại đi mò vớt, đập vỡ bóng trăng trong nước. Muốn uống nước côca côla mà lại đi gạt bọt, vớt bọt bỏ đi. Muốn trời trong sáng lại đi trừ sấm diệt chớp, diệt tối, diệt sáng.
Mà người này chỉ bằng ánh nhìn trong lặng, vô hiệu quá niệm, tham, sân si v.v.... Chúng chỉ là cùng dòng máu của mình thôi mà bấy lâu không biết, để chúng hoang tàn phá phách. Nên không giết, không trừ chúng, mà chỉ phát huy dòng máu, phát huy năng lực "lặng trong" mà lặng trong chúng gọi là hòa giải, là tiêu dung, là nối dòng máu thắm, xóa thù hằn xưa. Đây là phát huy năng lực tự tánh.
Năng lực này mang tánh trong suốt, không nhiễm ô, lặng yên bất động. Có khả năng hóa tán si mê, nên gọi là trí huệ. Một thứ trí huệ chân chánh, nên cũng gọi là chánh trí.
Bằng sức sống chánh trí (trí tự tâm) mà:
- - Soi nhìn đến thân, gọi là quán thân.
- Soi nhìn đến Thọ, gọi là quán thọ.
- Soi nhìn đến Tâm (ý), gọi là quán tâm.
- Soi nhìn đến Pháp, gọi là quán pháp.
Người này đã tu quán Tứ Niệm Xứ một cách thần tình lỳ diệu, được gọi là Quán Tự Tại. Người này đã thâm ngộ được chỗ mầu nhiệm của pháp (ngộ pháp), thế nên công phu trở nên nhanh chóng. Chóng trừ Tập nhân, chóng diệt khổ đau, chóng sanh chánh trí, chóng chứng Niết bàn. Vì tu được như vậy nên trong thời gian ngắn thôi, thì pháp tu trở nên viên mãn, xong việc quán niệm. Người được dúng như lời kinh, chỉ tu trong bảy ngày là xong.
"Này các Tỳ kheo, không cần gì đến nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn"... Nếu theo kinh Trung A Hàm thì chỉ trong vòng sớm tối, người này đã hành Tứ Niệm Xứ kỳ diệu như vậy. Đây là công phu Đốn, là thứ Thiền đốn ngộ. Có chứng nghiệm được pháp thiền này nên mới hay lời Phật nói trong kinh là dúng đắn, chí lý.
Này các Tỳ kheo đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ".
Như vậy mới thấy, chỉ có tu Thiền đốn mới đúng như chỗ mong muốn của Phật, mới thực hiện đúng điều Phật nói, Phật dạy.
Thiền đốn vì vậy là pháp thiền rất trung thật với pháp Tứ Niệm Xứ. Việc ngộ Tứ đế, chứng thánh quả tức thì này được diễn ra ở pháp hội "Vườn Nai" với năm anh em ông Kiều Trần Như. Các vị nghe đức Phật điểm hóa vừa xong là liền giác ngộ, chứng Thánh quả (A la hán), trở thành Tăng bảo đầu tiên.
- II. THIỀN TIỆM NGỘ:
Do công phu như vậy trải qua một thời gian, một lúc nào đó "vọng" chợt lặn và "chợt" nhận ra chỗ không vọng. Người hoát nhiên tỏ rõ, muôn duyên đều bặt, đất trời dường thênh thang. Như người chiêm bao chợt tỉnh, như người qua cái chết chợt hồi sinh, như người từ trong hang tối bước ra ánh sáng, như người mù được sáng, như người bịt mắt buông tay, rõ rằng hư không lồng lộng mà bấy lâu đi tìm lại không thấy. Người này hay ra "sự thật" là như vậy: Một "sự thật rất an bình", là sự thật rỗng không mênh mông bất tận, bất động dao, không một vọng nào. Người này được gọi là ngộ.
Đây cũng là ngộ cái mình đã hiểu từ trước. Là ngộ "tịch diệt", là ngộ chơn tâm, là ngộ tánh không, hay ngộ đạo, ngộ pháp, hoặc là kiến đạo, kiến tánh.
Như vậy, người này do tu lần lần, tức Tiệm tu, hành Thiền tiệm mà đưa đến tình trạng ngộ này, nên ngọi là Thiền tiệm ngộ.
Và rồi kể từ khi ngộ này mà khởi tu tiếp, người này sẽ trở thành người hành Thiền đốn. Pháp thiền đã được chuyển từ Tiệm sang Đốn (cũng hành Tứ Niệm Xứ). Người này giờ đây cũng là đốn ngộ, đốn tu, đốn chứng, chánh trí phát sanh, tấn nhập Niết bàn, Tập nhân đau khổ được giải trừ. Đời sống trở nên an vui bất tận (như trường hợp II - Thiền Đốn).
Chú Thích:
(*) Bất hoàn Chỗ này ở kinh Trung A Hàm tập II cũng qua bài kinh tựa "Niệm Xứ" tại trang 578 có thêm một đoạn như sau: "Không cần phải đến bảy ngày đêm, sáu, năm, bốn, ba hay hai ngày đêm, cũng không cần trong một ngày đêm, nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni nào trong từng khoảng khắc lập tâm chánh trụ nơi Bốn Niệm Xứ, nếu buổi sáng thực hành như vậy thì buổi tối liền được thăng tấn, nếu buổi tối thực hành như vậy thì nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn". (Kinh Trung A Hàm, nói về hai quả chứng: hoặc chứng cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc chứng A na hàm nếu còn hữu dư).